10- Bật mí bí mật: sự thật đằng sau bệnh Phế Ung | Ung thư phổi

127 lượt xem

Phê ung (ung thư phổi) là loại bệnh ở phổi hình thành ung nhọt, có các triệu chứng ho, tức ngực, phát sốt, nôn mửa ra đờm tanh hôi, nặng thì nôn ra đờm lẫn máu, máu cá. Bệnh này sách Kim quy yếu lược đã sớm xác định là : "Ho, tức ngực, họng đau, nôn ra đờm đục tanh hôi là phế ung dùng bài Cát cánh thang". 

Theo y hoc hiện đại thì bệnh phế ung có nhiều nguyên nhân đặc điểm và nhiều loại khác nhau như : các tổ chức ở phế hóa nùng, phế nùng, phế viêm dẫn đến hóa nùng, hoại thư phế, quá trình phế quản viêm, giãn khí quản lại bị cảm nhiễm hóa nung v.v... ở đây chủ yếu nói về bệnh phế ung. 

 

Nguyễn nhân và bệnh lý : 

Chủ yếu là do cảm thụ bên ngoài như phong nhiệt độc, phong hàn hóa nhiệt uất kết ở phế hoặc do nhiệt độc ở phế nùng nấu khiến phế khi không được thanh lợi, nhiệt ủng, huyết ứ kết thành ung, thành nùng, ngoài ra còn có quan hệ do thế chất, do ăn uống gây nên như, người vốn nhiều đờm hỏa, nghiên hút, uống rượu, dùng nhiều các chất cay nóng, dầu mỡ cũng uất lại cùng với cảm nhiễm phong tà phối hợp thành bệnh.

 

Biện chứng luận trị : 

Bệnh Phế ung cần phải căn cứ vào quá trình bệnh lý, chứng trạng trên lâm sàng và phân biệt hư thực để điều trị ; thời kỳ đầu phần nhiều bệnh ở biểu nên thành phế tán tà ; khi đã thành nùng nên thanh nhiệt giải độc khi vỡ nùng nên giải độc bài nùng, sau đó hồi phục cơ thể bằng cách bố khí dương âm, cụ thể như sau : 

a) Thời kỳ đầu:

- Triệu chứng:

Phát sốt, sợ lạnh, ho, đờm ít và sáp, đau vùng ngực, khi ho đau nhiều, khó thở, họng khô, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch phù hoạt và sác. 

- Phân tích : 

Dọ bị cảm và phong nhiệt ở ngoài biểu, khiến tà chính giao tranh nên phát sốt sợ lạnh mạch phù sác. Tà phạm vào phế, phế bị nhiệt độc nung nấu nên ho, tức ngực, khó thở v.v... Nhiệt làm khô tân dịch nên họng khô, sáp đờm. 

- Cách chữa : Sơ tán phong nhiệt, thanh phế hóa đờm. 

- Thuốc dùng bài : Ngân kiều tán (247) gia giảm. 

Trong bài dùng Ngâm hoa, liên kiều, lo can, trúc diệp để thanh nhiệt giải độc, phối hợp với bạc hà, kinh giới, đậu cổ, ngưu bàng, cát cánh để sơ phong, tuyên phế để phân giải tà thế, làm cho phế khí được thanh lợi. Nếu đau đầu gia tang diệp, cúc hoa, Mạn kinh để sơ phong nhiệt, mát dầu ; ho nhiều gia qua lâu, bối mẫu, hạnh nhân ; để chữa ho hóa đờm, gia thêm sa sâm, mạch môn, thiên hoa để nhuận phế, sinh tân dịch; Ngực đau tức nhiều gia uất kim, đào nhân để thông kinh tán ứ, giảm đau. 

b) Thời kỳ đã thành nùng: 

- Triệu chứng:  

Sốt cao, đổ mồ hôi không sợ lạnh, ho thở gấp, lồng ngực buồn nhức, nôn ra đờm rãi tanh hôi hoặc cùng máu cá, miệng khô họng ráo, rêu lưỡi vàng dày, mạch hoạt sác. 

- Phân tích : 

Sốt cao không sợ lạnh là do nhiệt độc cao, giữa chính và tà giao tranh, nhiệt bức bách nên đồ mồ hôi, đờm nhiệt cũng uất ở phế nên ho thở gấp, nôn đờm dãi tanh hôi và đau tức ngực. Tân dịch bị hao tổn nên miệng khô họng ráo ; rêu lưỡi vàng dày mạch hoạt sác cũng có nhiệt độc uất kết trong thời kỳ làm nùng. 

- Cách chữa : Thanh nhiệt giải độc, hóa ứ tán kết. 

- Thuốc dùng bài : Thiên kim thang (136) gia vị. 

Trong bài dùng tiết ngẫu (ngó sen) để tuyên phế thanh nhiệt, ý dĩ, qua lâu, đào nhân để tiêu ứ tán kết ; gia ngân hoa, liên kiều, ngư tinh thảo để thanh nhiệt giải độc.

Nếu nhiệt thịnh, mạch thực gia hoàng cầm chi tử, tri mẫu, thạch cao để thanh hỏa tiết nhiệt; Ho, tức thở, nôn ra đờm đục gia tang bì, đình lịch để tả phế trừ ung. 

c) Thời kỳ vỡ nùng : 

- Triệu chứng: 

Ho và nôn ra máu cá rất tanh hôi, ngực đau và buồn bực, nặng thì tức thở không nằm được, mặt đỏ, mình nóng, khát nước, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch hoạt sác. 

- Phân tích : 

Do nùng mủ vỡ ra nên ho và nôn ra máu cá tanh hôi ; phế khí không được thông lợi nên tức ngực, buồn bực khó nằm, tức thở, mình nóng mặt đỏ, khát nước là do huyết dịch khô hao, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch hoạt sác cũng do nhiệt độc nung nấu, khô hao tân dịch gây nên.

 -Cách chữa : Bài nùng giải độc, thanh nhiệt, sinh tân 

- Thuốc dùng bài :

  • Cát cánh thang (197) hợp với bài thiên kim vi hành thang (136) gia ngân hoa, liên kiều, bại lương thảo, ngư tinh thảo để thanh nhiệt giải độc. Bài nùng, khí hư, ra mồ hôi gia thêm hoàng kỳ để bổ khí, giúp sức bài nung ; tổn thương tân dịch, miệng khô họng ráo gia sa sâm, mạch môn để dưỡng âm sinh tân.
  • Nếu ho và nôn mửa ra nùng huyết dai dẳng không dứt, sốt về chiều, buồn bực phiền khát, ra mồ hôi, gầy yếu mệt mỏi, lưỡi đỏ, mạch hư sác là do âm khí tổn thương, nhiệt độc tồn tại nên bồi bổ chính khí, dưỡng phế, tư âm và bài nùng giải độc, kết hợp dùng bài cán cánh hạnh nhân tiễn (196) gia giảm.
  • Như trên đã nói, phế ung là chứng thực do đờm nhiệt ung trệ gây nên, cách chữa can thanh phế giải độc là chính, không nên sớm dùng và dùng nhiều thuốc bổ, khi đã thành nùng thì nên thanh nhiệt giải độc bài nùng tán kết. Nếu thấy thở dốc, nói khó, nôn ra nhiều nùng huyết mà tanh hôi là bệnh nặng nên tích cực điều trị. 
Bài viết cùng danh mục

Thông báo

Hoặc gọi 096.4343.168