18/ TIẾT TẢ: (Ỉa chảy)
Tiết tả còn gọi là "phú tả", tức là đi ỉa nhiều lần, phân lỏng nát: thậm chí đi ra nước không. Nội kinh cho là bệnh "tiết" gồm có: "Nhu tiết", "Đông tiết", "trúc tiết"; các thầy thuốc đời Đường gọi là bệnh "hạ lợi", thời Tống tổng quát là bệnh "tiết tả"
Theo y học hiện đại thì loại bệnh này thuộc hệ thống công năng và bệnh lý của dạ dày, đường ruột, can, đởm hoặc viêm đại tràng cấp và mãn tính.
18/ TIẾT TẢ: (Ỉa chảy)
Tiết tả còn gọi là "phú tả", tức là đi ỉa nhiều lần, phân lỏng nát: thậm chí đi ra nước không. Nội kinh cho là bệnh "tiết" gồm có: "Nhu tiết", "Đông tiết", "trúc tiết"; các thầy thuốc đời Đường gọi là bệnh "hạ lợi", thời Tống tổng quát là bệnh "tiết tả"
Theo y học hiện đại thì loại bệnh này thuộc hệ thống công năng và bệnh lý của dạ dày, đường ruột, can, đởm hoặc viêm đại tràng cấp và mãn tính.
- Nguyên nhân bệnh lý :
Bệnh tiết tả chủ yếu thuộc về tỳ vị và đại - tiểu tràng; nguyên nhân gây bệnh gồm: cảm thụ ngoại tà, thương tổn về ăn uống, tạng phủ hư suy hoặc công năng bị mất điều độ v.v.., chủ yếu là bị thấp hoặc công năng vận hóa của tỳ vị bị trở ngại. Trên lâm sàng, thường thấy phần nhiều thuộc thấp tà, trong thấp tà có hàn thấp và thấp nhiệt. Công năng vận hóa của tỳ vị bị trở ngại gồm có bệnh tà gây ảnh hưởng, cơ thể suy nhược, can tỳ mất điều độ và thận dương bị suy yếu.
1) Do cảm thụ ngoại tà :
Cảm thụ ngoại tà gồm có: Hàn, nhiệt, thử, thấp trong đó phần nhiều là do thấp tà. Vì tỳ ưa táo mà không ưa thấp, do đó thấp tà dễ hại đến tỳ; hàn, thử, nhiệt đều làm thương tổn đến tỳ vị khiến công năng vận hóa bị trở ngại. Không phân biệt được trong đục, thăng giáng thất thường gây nên; tuy hàn, thử, nhiệt tà có khác nhau nhưng đều có quan hệ đến thấp tà, cho nên thường nói "không có thấp không thành tà".
2) Do bị tổn thương về ăn uống:
Ăn uống quá độ khiến đình trệ lại hoặc ăn nhiều các thứ dầu mỡ sống lạnh khiến tỳ vị bị tổn thương, công năng vận hóa bị trở ngại như trong Cảnh Nhạc Toàn Thư nói : "Ăn không điều độ, ở không thích nghi, tỳ vì bị tổn thương, thủy biến thành thấp, thực biến thành trệ, tinh hoa không chuyển hóa dẫn đến tiết tả".
3) Do tỳ vị dương hư :
Tỳ sở dĩ đảm bảo được công năng vận hóa là nhờ ở dương khí đẩy đủ. Nếu lao động quá sức, đau ốm triền miên đều dẫn đến tỳ dương hư suy không tiêu hóa được thức ăn, đình trệ lại, trong đục hỗn tạp gây nên tiết tả.
4) Do mệnh môn hỏa suy :
Nếu ốm lâu hoặc đi lỏng kéo dài, tổn thương đến thận dương, thận dương suy không ôn được tỳ, khiến tỳ dương suy dẫn đến tiết tả. Trong Cảnh Nhạc Toàn Thư nói: "Dạ dày là quan ải của thận, thận khai khiếu ở tiền âm và hậu âm (đại tiện và tiểu tiện) thận chủ chức năng đóng mở. Nếu thận dương yếu, mạnh môn hỏa suy, âm hàn nhiều gây ra tiết tả".
5) Tình cảm, ý chí không bình thường:
Người vốn tỳ vị hư yếu lại bị tình chí thất thường ảnh hưởng đến như tức giận hại can, lo nghĩ hại tỳ, khiến can khí phạm tỳ vị, khiến tỳ vị vận hóa kém gây nên tiết tả. Như trên đã nói : Bệnh tiết tả có 2 nguyên nhân chính : Nguyên nhân bên ngoài là do ngoại tà xâm nhập tỳ vị; Nguyên nhân bên trong là do tỳ vị yếu hoặc do ăn uống gây nên. Mãn tính là do Tỳ hư là chính, cấp tính do thấp tà là chính và phân biệt thuộc hàn, thuộc nhiệt, thuộc hư, thuộc thực.
Phân trong, nát thuộc hàn, vàng, nồng thối thuộc nhiệt, Bụng đau xoắn, đầy, tả xong đau đầy giảm thuộc thực: bụng không đau hoặc đau lâm râm, ưa chườm nắn thuộc hư.
A) Cấp tính :
1) Cảm thụ hàn thấp :
Bụng đau, bụng dưới sôi nhiều, phân lỏng và nát, hoặc sốt nhẹ sợ lạnh choáng đầu, ngạt mũi, người buồn mỏi, lưỡi nhợt mạch nhu.
Phân tích : Bị cảm thụ hàn thấp ảnh hưởng đến tỳ vị, công năng tỳ vị bị giảm, thăng giáng không đều, trong đục lẫn lộn, tiêu hóa kém, các thứ dồn xuống đại tràng gây sôi và tả. Khí cơ của tràng vị bị cản trở nên đau bụng; nếu bì phu bị nhiễm phong hàn thì phát sốt sợ lạnh, đau đầu; Lưỡi nhợt, mạnh nhu tế là biểu tượng của hàn thấp.
- Cách chữa : giải biểu tán hàn hóa trọc chỉ tả.
- Thuốc dùng bài hoắc hương chỉnh khí tán (281) gia giảm để tán phong hàn, táo thấp, trừ đầy, kiện tỳ, điều lý tràng vị khiến thấp trọc được hóa, phong hàn được giải, công năng của tỳ vị được phục hồi tiết tả sẽ khỏi.
2) Thấp nhiệt bức bách ở dưới:
Vừa đau vừa tả, đi nhanh như xối nước, phân vàng mùi hôi thối. Hậu môn nóng rát, tiểu tiện vàng dắt, buồn bực khát nước, rêu lưỡi vàng, mạch nhu sác.
- Phân tích : Trong vụ hè thu, nắng nóng và độ ẩm cao gây ra thấp nhiệt hại đến tràng vị khiến sự truyền hóa thất thường gây nên ỉa chảy, thấp nhiệt dồn xuống dưới, tính của nhiệt là cấp bách nên ỉa như xối nước, bụng đau gấp, hậu môn nóng rát, phân vàng, nát và hôi thối, tiêu tiện vàng dắt, ít buồn bực, khát nước, rêu lưỡi vàng, mạch nhu sác đều là biểu hiện thấp nhiệt cao.
- Cách chữa : Thanh nhiệt lợi thấp.
- Thuốc dùng bài: Cát căn cảm liên thang (259) gia vị. Trong bài dùng Cát căn để giải cơ, thanh nhiệt, hoàng cầm, hoàng hiên để thanh nhiệt táo thấp gia ngân hoa, bạch linh, mộc thông để giúp sức cho thanh nhiệt lợi thấp, khiến trong ngoài đều được giải thấp nhiệt được phân tiêu thì tả sẽ khỏi. Nếu thấp nặng, bụng buồn bực, không khát hoặc khát mà không muốn uống, lưỡi vang rêu dày, cần phải hóa thấp, gia thêm thương truật, hậu phác, xa tiền. Nếu nhiệt nặng, sốt cao, khát nước, mạch hoạt xác, cần phải thanh nhiệt, gia liên kiều, tri mẫu. Nếu trong mùa hạ, thử thấp nhiều, gia hoắc hương, hương nhu, biển đậu, bạc hà, có đình trệ do ăn uống gia sơn tra, thần khúc.
3) Bị thương thực (do ăn uống) :
Bụng đau và sôi, tả ra phân nát và nồng thối, tả xong đau giảm, hông bụng đầy tức, ợ ra hơi chua và nồng, rêu dày, mạch hoạt sác.
- Phân tích : Do ăn uống không điều độ, thức ăn gây trở ngại ở tràng vị nên bụng đau, đẩy, sôi ; Thức ăn đình tích lại gây ợ hơi chua nồng, đi tả phân nóng hôi; sau khi tả bã và độc được tống ra nên bụng giảm đau. Rêu lưỡi dày, mạch hoạt sác là thực tích hóa thành nhiệt.
- Cách chữa : Tiêu Thực, đạo trệ.
- Thuốc dùng bài : Bảo hòa hoàn (179) để tiêu thực trệ, hòa vị, trừ thấp. Nếu thức ăn tích trệ lại, bụng đau và đầy gia đại hoàng, chỉ thực, binh lang để không tích trệ, theo ý nghĩa "Thông nhân thông dụng".
B/ Tiết tả mãn tính :
1) Tỳ vị hư yếu: Đại tiện lúc ỉa lỏng, lúc són, ăn không tiêu, chán ăn, sau khi bụng đầy, buồn, mặt bủng, tinh thần mệt mỏi, rêu lưỡi trắng nhợt mạch hoãn nhược.
- Phân tích : Do tỳ vị hư yếu, vận hóa kém, trong đục không phân, thăng giáng thất thường, ăn không tiêu lúc tả lúc són ; Tả lây tỳ vị càng hư yếu, không sinh được tinh hoa, khí huyết kém dần nên mặt bủng, gầy yếu mệt mỏi.
- Cách chữa: Kiện tỳ hóa thấp.
- Thuốc dùng bài: sâm linh bạch truật tán (163).
Trong bài dùng sâm, linh, truật, thảo, hoài sơn, biểu đậu, liên nhục, ý dĩ đề bổ tỳ lợi thấp, trần bì, sa nhân, cam thảo để hòa vị, lý khí. Nếu hư hàn nhiều, chân tay không ấm, bụng sôi đi nhiều nước, nên ôn trung tán hàn; dùng bài Lý trung hoàn gia phụ tử, nhục quế. Nếu tả lâu, khi hư hạ hảm, lòi dom, dùng bài bổ trung ích khí bội sâm kỳ để thăng thanh, kiện tỳ, chỉ tả.
2) Thận dương hư suy :
Trước khi rạng sáng đau quặn vùng rốn, bụng sôi, rồi tả, tả xong giảm đau; bụng lạnh, chân tay lạnh, sợ lạnh, lưỡi trắng nhợt, mạch trầm tế.
- Phân tích : Do tả lâu khiến thận dương hư, dương khí yếu, vị quan không vững nên có những triệu chứng trên: Loại này gọi là "ngũ canh tiết tả" tức là tả vào canh năm, sau khi tả khí được thông lợi nên giảm đau, người lạnh lưỡi nhọt, mạch trầm tế là biểu hiện của tỳ thận dương hư.
- Cách chữa: ôn thận kiện tỳ.
- Thuốc dùng bài: Tứ thần hoàn. Trong bài dùng Cố chỉ để bổ thận dương. Ngô thù, nhục đậu để ôn tỳ vị, ngũ vị để liễm tràng chỉ tả; Có thể gia phụ tử, bào khương, vũ dư hương (nâu) để ôn dượng sáp tràng. Nếu tuổi cao, sức yếu, tả lâu không khỏi gia sâm, kỳ, bạch truật, thăng ma để ích khí, thăng đề hợp với bài Đào hoa thang để cố sáp, chỉ tả.
3) Can khí thừa tỳ: Thường thường hông bụng đầy buồn, ăn ít, ợ hơi; mỗi lúc buồn bực, tinh thần căng thẳng thì bụng đau, đi tả; Lưỡi đỏ nhọt, mạch huyền.
- Phân tích : Có các triệu chứng trên là Can tỳ không hòa, khi buồn bực căng thẳng thì Can khí tràn sang tỳ, khiến tỳ kém vận hóa, khí cơ không điều hòa nên lúc ấy đau bụng đi tả; Lưỡi đỏ mạch huyền là biểu hiện của Can vượng tỳ hư.
- Cách chữa : Ức can, kiện tỳ.
- Thuốc dùng bài: Thống tả yếu phương (256). Trong bài dùng Bạch truật để kiện tỳ, bạch thược để nhu can, trần bì để lý khí, phòng phong để sơ phong, trợ tỳ: Bốn vị hợp thành để điều đạt can khí, thăng vận tỳ khí; Can tỳ được điều hòa, đau và tả sẽ khỏi.
Như đã khái quát ở trên, tiết tả có nhiều loại, có lúc tả đơn thuẩn, có lúc kiêm nhiều chứng trạng thương chuyển hóa lần nhau, cần căn cứ đó mà điều trị. Tiết tả tính phần nhiều do ngoại tà xâm phạm và ăn uống gây nên, bệnh phần lớn thuộc thực.
Cách chữa nên khử tà là chính như phong hàn nên sơ giải, thấp nhiều thì phân lợi, thử nhiệt thì thanh và hóa, ăn uống tích trệ thì tiêu và thông. Tiết tả mãn tính phần nhiều do công năng của tạng phủ không điều hòa gây nên, bệnh phần lớn thuộc hư, cách chữa nên bổ là chính như : hư hàn thì ôn bổ, hạ hàn thì thăng để, hoạt thoát thì cố sáp, thất tình tức giận thì sơ can hòa tỳ. Cấp tính không nên quá bổ và dùng nhiều chất sáp, mãn tính không được thông lợi; ngoài ra trong việc ăn uống cần kiêng các thứ sống lạnh, dầu mỡ.
