44 / CAO HUYẾT ÁP

127 lượt xem

Cao huyết áp là loại bệnh mãn tính thường gặp, còn gọi là “cao huyết áp nguyên phát”. Biểu hiện chủ yếu là động mạch huyết áp tăng cao. Thời kỳ cuối thường dẫn đến bệnh biểu ở khí quan của tâm, thận, não. Bệnh này thường gặp ở người tuổi cao và có quan hệ đến nghề nghiệp và gia tộc.

Cao huyết áp còn kèm theo một số bệnh như hệ thống tiết niệu, tim v.v ... cần phân biệt rõ. Bệnh này căn cứ triệu chứng chủ yếu trên lâm sàng, theo y học cổ truyền là đau đầu, chóng mặt, và nằm trong phạm trù “trúng phong, cam dương vượng”. Sách Nội kinh nói: “Mọi chứng choáng váng chao đảo đều thuộc can mộc; Thận hư thì nặng đầu và tủy thiếu thì ù tai“ và cho là bệnh này quan hệ đến can, thận. Sách Thiên kim dục phương nói: Can quyết thì đau đầu, hỏa quyết bốc lên đầu não gây bệnh, vì can mạch và đốc mạch đều tụ hội ở đỉnh đầu và can quyết gây đau đầu sẽ dẫn đến mờ mắt. Nói rõ là đau đầu chóng mặt là do can hỏa bốc lên. Sách Đông viên phát minh nói là: Tuổi từ bốn mươi trở lên, nguyên khí đã suy và do lo nghĩ phiền uất càng hại đến nguyên khí vì thế mà phát bệnh”. Sách Đan khê tâm pháp lại nói: “Không có đờm thì không thành huyễn, không có hỏa thì không thành vựng “cho đó là nguyên nhân gây nên huyễn vựng mà huyễn vựng là nguyên nhân của bệnh cao huyết áp, những trình bày trên là nhận thức của nền y học cổ truyền đó là cơ sở cho việc nghiên cứu và điều trị bệnh cao huyết áp.

44 / CAO HUYẾT ÁP:

Cao huyết áp là loại bệnh mãn tính thường gặp, còn gọi là “cao huyết áp nguyên phát”. Biểu hiện chủ yếu là động mạch huyết áp tăng cao. Thời kỳ cuối thường dẫn đến bệnh biểu ở khí quan của tâm, thận, não. Bệnh này thường gặp ở người tuổi cao và có quan hệ đến nghề nghiệp và gia tộc.

Cao huyết áp còn kèm theo một số bệnh như hệ thống tiết niệu, tim v.v ... cần phân biệt rõ. Bệnh này căn cứ triệu chứng chủ yếu trên lâm sàng, theo y học cổ truyền là đau đầu, chóng mặt, và nằm trong phạm trù “trúng phong, cam dương vượng”. Sách Nội kinh nói: “Mọi chứng choáng váng chao đảo đều thuộc can mộc; Thận hư thì nặng đầu và tủy thiếu thì ù tai“ và cho là bệnh này quan hệ đến can, thận. Sách Thiên kim dục phương nói: Can quyết thì đau đầu, hỏa quyết bốc lên đầu não gây bệnh, vì can mạch và đốc mạch đều tụ hội ở đỉnh đầu và can quyết gây đau đầu sẽ dẫn đến mờ mắt. Nói rõ là đau đầu chóng mặt là do can hỏa bốc lên. Sách Đông viên phát minh nói là: Tuổi từ bốn mươi trở lên, nguyên khí đã suy và do lo nghĩ phiền uất càng hại đến nguyên khí vì thế mà phát bệnh”. Sách Đan khê tâm pháp lại nói: “Không có đờm thì không thành huyễn, không có hỏa thì không thành vựng “cho đó là nguyên nhân gây nên huyễn vựng mà huyễn vựng là nguyên nhân của bệnh cao huyết áp, những trình bày trên là nhận thức của nền y học cổ truyền đó là cơ sở cho việc nghiên cứu và điều trị bệnh cao huyết áp.

- Nguyên nhân và bệnh lý:

Nguyên nhân và bệnh lý của bệnh cao huyết áp đến nay chưa được xác minh rõ song trước mắt cho rằng có khả năng và phương pháp điều trị như sau:

1 ) Thần kinh cao cấp hoạt động bị trở ngại.

Do ngoại cảnh tác động vào gây kích thích, tinh thần căng thẳng dẫn đến công năng hoạt động của đại não bị rối loạn, mất sự điều tiết bình thường của huyết quản trung ương, ở đó gây hưng phấn và gây nhiễu loạn, tiểu động mạch xơ cứng, trở ngại của huyết áp, sau đó thường có sự phản ứng bất thường hoặc dữ dội. Quá trình hưng phấn và giao cảm của tiểu động mạch căng thẳng thì huyết áp khi đo ở máy đo huyết áp cũng tăng cao .

2 ) Thận thiếu máu để sản sinh ra thận tố.

Tiểu động mạch bị xơ cứng lâu làm cho thận tạng thiếu máu. Thận và can làm cho bạch cầu cao, từ do làm cho huyết áp từng bước tăng cao. Ngoài ra từ tiểu động mạch xơ cứng, máu ở thận càng thiếu lại làm cho huyết áp tăng cao.

3 ) Thần kinh trung ương hưng phấn và tăng cao:

Do thần kinh trung trong hưng phấn và tăng cao, qua não thùy khiến thương tuyến của thận cũng tăng, sau đó áp lực của hệ thống huyết quản cũng tăng và làm cho tiểu động mạch xơ cứng lại làm cho huyết áp tăng cao. Theo y học cổ truyền nước ta thì nguyên nhân của bệnh cao huyết áp là: tinh thần lao tốn, ăn uống không điều độ và nội thương hư tổn.

3.1 ) Nhân tố tinh thần: Do tinh thần căng thẳng lâu ngày hoặc lo nghĩ tức giận khiến can khí nội uất, uất lâu hóa hỏa làm hao tổn can âm, âm không hiếp được dương, can dương nhiễu loạn lên đầu, mắt. Hai tạng can thận có quan hệ mật thiết với nhau, can hỏa đều nung đốt phần âm của can thận, hình thành can thận âm hư, can dương khô nóng.

3.2 ) Ăn uống không điều độ: Do ăn uống nhiều thứ ngon béo mật mỡ, hoặc uống rượu nhiều làm cho thấp trọc sinh ra, chứa lâu thành nhiệt, nhiệt nung nấu tân dịch thành đờm, đòm trọc trở ngại kinh lạc, che lấp khiến trên mà gây cao huyết áp,

3.3 ) Nội thương hư tổn: Như lao động nhiều hoặc tuổi cao thận yếu, can không được nuôi dưỡng khô nóng, nội phong dễ động. Như trên đã nói các nguyên nhân gây bệnh khiến cho âm dương mất thăng bằng trong đó can thận âm dương mất điều độ. Nhân can thận âm hư, can dương khô nóng bốc lên, hình thành hiện tượng trên thịnh dưới hư nên xuất hiện đau đầu chóng mặt, ù tai, mất ngủ v.v .. Ví như thận âm hư tốn không nuôi dưỡng được tâm, tâm cũng bị liên lụy nên cảm thấy hồi hộp, hay quên, mất ngủ. Bệnh lâu không khỏi, âm làm tổn đến dương dẫn đến thận dương yếu, sợ lạnh, chân tay lạnh, đêm đi dái nhiều, liệt dương ... âm bị hư tổn trước, dương bị sau và cuối cùng là âm dương đều hư. Dương thăng hóa thành phong thành hở, can phong vào kinh lạc thì tay chân tê cứng, nặng thì méo mồn lệch mắt. Can hỏa bốc lên thì mặt đỏ, mắt đỏ, hay cáu gắt; phong và hỏa nung nấu tân dịch thành đờm. Nếu can dương bạo động, huyết theo khí ngược lên hiệp với đờm nhiễu loạn tâm thần gây mê ngất. Ngoài ra hai mạch xung nhâm quan hệ đến huyết mạch toàn thân và có quan hệ mật thiết với can thận, có khả năng dẫn đến can dương khô nóng làm cho thận dương suy thành âm dương đều suy và có biểu hiện dương nhiễu ở trên. Bệnh cao huyết áp trên lâm sàng nặng nhẹ khác nhau, khi lên cơn nhẹ bệnh nhân không biết được chỉ có thể nghiệm (bằng máy đo) mới biết rõ. Có khi huyết áp giao động nhiều, trước thấy là chóng mặt, hoa mắt, ù tai, hồi hộp, mất ngủ, hay quen v.v ... sau thời gian dài thì động mạch ở khí quản tâm, thận não bị xơ cứng và diễn biến phức tạp.;

- Phân tích chủ chứng: Các triệu chứng của bệnh cao huyết áp trên lâm sàng có nhiều song thấy nhiều là đau đầu chóng mặt. Đầu là nơi hội tụ của mọi phần dương, là phủ của sự sáng suốt, khí huyết tinh hoa của ngũ tạng lục phủ đều tụ lên đầu cho nên bất luận ngọai cảm nội thương đều phạm đến đỉnh đầu gãy trở ngại kinh lạc, rối loạn khí huyết sinh ra đau đầu chóng mặt. Đau đầu chóng mặt của bệnh này lấy nội thương làm chủ. Do can thận âm hư, thượng thịnh hạ hư dẫn đến đau đầu, chóng mặt, ù tại đau lưng, mỏi gối, di tinh v.v ... Hoặc vì can hỏa quá mạnh, khí huyết từ đó bốc lên cũng gây các chứng trạng như trên và kèm theo mặt đỏ, mắt đỏ, miệng đắng, tính tình nóng nảy hay cáu gắt. Cũng có khi đờm thấp gây trở ngại bên trong gây nhiễu thanh khiếu cũng có các chứng trạng như trên kèm theo hông bụng buồn bực, nôn ra đờm rãi, người ỉu xìu có khi lẩn thẩn, lưỡi nhợt mạch huyền.

Tóm lại bệnh cao huyết áp có mấy thể sau đây:

1 ) Can hỏa cang thịnh:

- Chủ chứng: Đau đầu, chóng mặt, mặt và mắt đỏ, lưỡi đỏ miệng đắng, buồn bực hay kinh sợ, đại tiện bí tiểu tiện vàng dắt, mạch huyền. Hai tạng can thận có quan hệ mật thiết với nhau, can hỏa đều nung đốt phần âm của can thận, hình thành can thận âm hư, can dương khô nóng.

- Cách chữa: Bình can tả hỏa.

-Bài thuốc: Long đởm tả can thang ( 76 ) gia giảm gồm các vị: Long đởm, chi tử, hoàng cầm, sinh địa, cúc hoa, hòe hoa, câu đẳng, mộc thông, bạch thược từ thạch. Nếu đại tiện khô táo gia đại hoàng để tả hỏa thông tiện, đau đầu nhiều gia thạch quyết minh, trân châu mẫu để tiềm chấn can dương, mồm miệng khô ráo gia thạch học huyền sâm để dưỡng âm tiết nhiệt.

2 ) Âm hư dương cang:

-Chủ chứng: Chóng mặt, đau đầu, nặng đầu, ù tai, buồn bục, hay quên, lòng bàn tay và vùng tim nóng, lưỡi trắng, mạch huyền, tế sác.

- Cách chữa: Bổ âm tiềm dương.

- Bài thuốc: Tri bá địa hoàng hoàn ( 157 ) gia giảm gồm các vị: Thục địa, hoài sơn, sơn thù, bạch linh, đan bì, trạch tả, tri mẫu, hoàng bá, quy bản, mẫu lệ, bạch tật lê. Nếu can dương mạnh chóng mặt nặng đầu nhiều gia thiên ma, câu đằng, thạch quyết minh. Âm hư hỏa động hồi hộp gia trân châu mẫu; âm hư đại tiện khô táo gia hắc ma nhân ( vừng đen ) âm hư phong động, chân tay tê cứng gia tang chi ( cành dâu ) tang ký sinh, hy thiêm thảo.

3 ) Âm dương đều hư:

- Chủ chứng: Đau đầu, chóng mặt, ù tai hồi hộp, đau lưng mỏi gối, ít ngủ hay mơ, đêm đi tiểu nhiều, hay run, lưỡi đỏ nhợt, mạch huyền tế.

- Phép chữa: Dưỡng âm trợ dương.

-Bài thuốc: Kim quỹ khí thận hoàn ( 153 ) gia giảm ( tức là bài bát vị hoàn ). Nếu thấy miệng khô họng ráo mạch huyền tế là thiên về âm hư, gia thạch hộc, kỹ tử, dâm dương hoắc. Nếu thấy chân tay lạnh, sợ lạnh sức yếu, đại tiện lỏng, ra mồ hôi, mạch trầm tế, đó là thiên về dương hư, nên tư âm tráng dương, gia cao ban long, đỗ trọng, ba kích. Nếu phụ nữ gần đến tuổi mãn kinh, mạch xung nhân không đều, đau đầu, chóng mặt, ít ngủ, bụng quặn đau, lưỡi nhợt, mạch huyền tế nên bổ dưỡng xung nhâm, dùng bài Tiên mao thang ( 93 ).

4 ) Đàm thấp ủng thịnh:

- Chủ chứng: đau đầu, chóng mặt, nặng đầu hồi hộp, hông bụng đầy buồn, ăn ít, thường nôn ra đờm rãi, lưỡi trắng nhợt, mạch hoạt.

-Phép chữa: Khử thấp hóa đờm .

- Bài thuốc: Bán hạ bạch truật thiên ma thang ( 61 ) gia giảm. Trong bài gồm các vị: Trần bị, bán hạ, bạch linh, bạch truật, thiên ma, câu đằng, xương bồ, cam thảo. Nếu thấy choáng đầu, buồn bực, mất ngủ, lưỡi vàng nhợt, mạch huyền hoạt đó là triệu chứng của đờm nhiệt, nên dùng thêm các vị như bối mẫu, hạnh nhân, viễn chí, trúc nhự, thiên trúc hoàng, đảm tinh, v.v ... Có thể dùng một trong các vị sau đây mỗi thứ 20 - 30 gam, rửa sạch, sắc làm nước uống thường xuyên. Tầm gửi, cây dâu, lộc vông, câu đằng, sắn dây, mã đề, hạt muồng, cam thảo đất, hoa cúc vàng loại nhỏ ( kim cúc ).

 

Bài viết cùng danh mục

Thông báo

Hoặc gọi 096.4343.168