9/ LỴ TẬT (Bệnh lý).

116 lượt xem

Lỵ tật có triệu chứng chủ yếu như quặn đau mót rặn, phân có chất nhầy, có máu hoặc cùng máu cá; Bệnh xuất hiện nhiều về mùa hè thu. Bệnh này người xưa gọi ba tràng tích", "Trệ hạ". Trong Chư bệnh nguyên hậu luận nói có các loại "Lỵ trắng", "lỵ đỏ", "lỵ trắng đỏ", "nhiệt lỵ... Y học hiện đại nói đến lỵ truyền nhiễm, dịch lỵ mà Đan Khê tâm pháp ngày xưa đã nói "Thời dịch lỵ" (bệnh dịch lỵ) truyền nhiễm cả nhà, cả vùng

9/ LỴ TẬT (Bệnh lý).

Lỵ tật có triệu chứng chủ yếu như quặn đau mót rặn, phân có chất nhầy, có máu hoặc cùng máu cá; Bệnh xuất hiện nhiều về mùa hè thu. Bệnh này người xưa gọi ba tràng tích", "Trệ hạ". Trong Chư bệnh nguyên hậu luận nói có các loại "Lỵ trắng", "lỵ đỏ", "lỵ trắng đỏ", "nhiệt lỵ... Y học hiện đại nói đến lỵ truyền nhiễm, dịch lỵ mà Đan Khê tâm pháp ngày xưa đã nói "Thời dịch lỵ" (bệnh dịch lỵ) truyền nhiễm cả nhà, cả vùng

- Nguyên nhân và bệnh lý :

a/ Thấp nhiệt dịch độc truyền vào đường ruột gây bệnh.

b/ Do ăn uống không điều độ, hoặc ăn các chất dầu, mỡ, cay, nóng nhiều khiến tỳ vị tổn thương khiến thấp nhiệt ủng trệ gây nên. Bệnh này chủ yếu ở đường ruột do bị thấp nhiệt dịch độc hàn thấp ngưng trệ trong đường ruột làm cho khí huyết cùng ngưng trệ gây trở ngại cho việc thải phân ra ngoài. Khí trệ nhiều gây quặn đau mót rặn, nhiệt cao truyền vào phần huyết dẫn lên gan gây hôn mê. Nếu bệnh kéo dài chính khí hư biến thành kiết lỵ kinh niên hoặc lúc phát, lúc khỏi, chẳng những tổn thương tỳ, vị mà còn ảnh hưởng đến thận dẫn đến tỳ thận đều hư.

- Bệnh chứng:

Bệnh mới phát thuộc thực, nhiệt.

Cách chữa nên thanh nhiệt, hóa thấp, giải độc và điều khí hành huyết, kiêng dùng những vị cầm, bịt lại ngay. Bệnh ở biểu thì dùng thuốc giải biểu, tích trệ do ăn uống thì phải thông trệ ; bệnh lâu, hoặc hư nên ôn bổ. Cụ thể có mấy loại sau đây:

1) Thấp nhiệt lỵ

Có các triệu chứng: Bụng quặn đau đi ra máu lẫn nhảy mũi, một rặn liên tục, hậu môn nóng rát, nước tiêu vàng, lười đó rêu vàng dày, mạch hoạt sác.

- Phân tích : Bụng đau mót rặn là do thấp nhiệt trệ bên trong, khí cơ trở ngại cho việc thải phân ra ngoài. Thấp nhiệt nung nấu trong đường ruột gây khí huyết ứ trệ nên ra máu mủ. Do thấp nhiệt nặng ở dưới nên hậu môn nóng rát, tiểu tiện vàng.

Cách chữa : thanh nhiệt, hóa thấp, giải độc và điều khíhành huyết.

- Thuốc dùng : Khi mới phát dùng bài "thược dược thang gia giảm" (106). Trong bài dùng hoàng liên, hoàng cầm để thanh nhiệt, hóa thấp giải độc; đương quy bạch thược, cam thảo để hành huyết, mộc hương, binh lang để hành khí thông trệ, đại hoàng để tả thực nhiệt. Nếu phát sốt, sợ lạnh, đau đầu gia cát căn, liên kiều, kinh giới; ăn uống đình trệ, gia thần khúc, sơn tra. Nếu nhiệt nặng đi ra máu sốt cao khát nước, lưỡi đỏ, mạch hoạt sác dùng bài : Bạch đầu ông thang (91) để thanh nhiệt, giải độc, có thể gia thêm kim ngân, bạch thược, chỉ thực, can thảo.

2) Dịch độc lỵ:

Có các triệu chứng: Bệnh phát rất nhanh, sốt cao, đau đầu, khát nước, buồn bực, bụng đau dữ dội, ỉa ra máu cá hoặc máu tươi. Nặng thì hôn mê co rút, lưỡi đỏ rêu vàng khô, mạch hoạt sác. Nghiêm trọng dẫn đến chân tay lạnh, khó thở, thở nông, thở gấp có thể chết.

Phân tích : Do dịch độc quá cao nên phát bệnh rất gấp. Nhiệt bốc lên trên nên đau đầu, buồn bực: nhiệt nung nấu ở trong nên khô khát; Nhiệt độc ủng trệ ở dưới trở ngại khí cơ nên bụng đau dữ dội mót rặn liên tục; Nhiệt độ nung nấu ở đường ruột nên đi ra máu : Do nhiệt độc cao gây nên hôn mê, co rút, lạnh chân tay v.v...

Cách chữa : thanh nhiệt, lương huyết, giải độc.

- Thuốc dùng bài : Bạch đầu ông thang (91) gia vị. Trong bài dùng Bạch đầu ông để lương huyết giải độc là chính cùng với hoàng liên, hoàng bá, trần bì để hóa thấp thanh nhiệt, gia ngân hoa, hoàng cầm, xích thược, đan bì để thanh nhiệt lương huyết. Nếu sốt cao, mơ màng, quờ quạng là nhiệt độc xâm nhập vào phần huyết dùng bài tử huyết đơn (269). Nếu mặt xám, đỏ, chân tay lạnh ra mồ hôi, thở gấp, mạch tế nhược là chứng nội bế, ngoại thoát dùng ngay bài Sâm phụ thang (161) để hồi dương cứu thoát. Nếu cấm khẩu không nuốt được thuốc thì cho ống dẫn đưa thuốc vào. Nếu ở trẻ em hoặc bệnh nghiêm trọng thì dùng Đông-Tây y kết hợp. Ngoài ra, trong quá trình diễn biến của bệnh, bệnh nhân không ăn uống được, nôn mửa, tinh thần mệt mỏi, sức yếu là do thấp nhiệt độc nung nấu bệnh ách lên khiến chức năng vận hóa không tốt dùng bài khai cấm tán (46) gia giảm. Nếu vị khí bị tổn thương nặng thì gia sâm, mạch môn. Nếu cấm khẩu thì điều trị theo phương pháp Bệnh lý cấm khẩu.

3) Hàn thấp lỵ :

Là phân máu mủ lẫn lộn hoặc ra chất nhầy trắng dẻo, thỉnh thoảng đau bụng mót rặn, sợ lạnh, mệt mỏi, lưỡi trắng nhợt, mạch nhu hoãn.

- Phân tích: Do hàn thấp trệ bên trong trở ngại khí cơ nên mót rặn, bụng đau; hàn thấp làm tổn hại phần khí nên ra chất trắng nhầy nhiều hơn đỏ; sợ lạnh mệt mỏi cũng do hàn thấp làm tổn thương dương khí ở tỳ vị.

- Cách chữa : ôn trung táo thấp và giải độc.

- Thuốc dùng bài: ôn tỳ thang (253) gia giảm. Trong bài dùng Can khương phụ tử để ôn trung trừ hàn ; Cam thảo, đại hoàng để điều hòa giải độc, một hương để hành khí; Chỉ thực, thần khúc, sơn tra để tiêu tích chữa lỵ.

 

4) Hưu tức lỵ:  (Lỵ bất thường).

Bệnh lúc phát, lúc khỏi, dai dẳng lâu ngày, đi ra máu cá, mót rặn, bụng quặn đau. Ngày thường phân không nhiều; phân trắng đỏ lẫn lộn đính dẻo, có lúc đi ra máu, bụng đau gấp, ăn ít, mệt mỏi, lười nhợt, mạch tế.

- Phân tích : Do bệnh lâu khiến chính khí hư thấp nhiệt trệ lâu ngày làm cho tỳ vị yếu nên ăn ít, mệt mỏi, thấp nhiệt trệ không được trừ khử nên bệnh lâu khỏi, lười nhợt, mạch tế cũng do thấp trệ và chính khí yếu gây nên.

Cách chữa: kiện tỳ, bổ khí, thanh nhiệt, hóa thấp, thời gian nào đi nhiều thì hóa thấp thanh nhiệt là chính, thời gian nào không đi thì kiện tỳ bổ khí là chính.

- Thuốc : khi phát dùng bài thược dược thang (106) hoặc bài Bạch đầu ông thang (91) gia giảm. Khi không phát dùng bài kiện tỳ hòa vị thang (250) hợp với bài hương liên hoàn (177).

Các bài thuốc trên đều có thể gia nha đỏm tử tán bột mỗi lần uống từ 7-10 gam uống liên tục từ 7-10 ngày.

 

5) Hư hàn lỵ: Đi ra chất nhảy loãng, són rặn luôn, bụng đau xoắn, ăn ít, mệt mỏi, sợ lạnh, chân tay không ấm, lười nhợt, mạch tế nhược.

- Phân tích : Do bệnh lâu làm cho tỳ thận hư hàn, tỳ dương không được phấn chấn, khí cơ không tốt nên đi nhầy lỏng, són rặn, bụng đau xoản, ăn ít, mệt mỏi, vì thận dương yếu nên sợ lanh chân tay không ấm, lưỡi nhọt.

- Cách chữa : ôn bổ tỳ thận và chữa són rặn. Trong bài dùng kha tử, anh túc xác để giữ lại, sâm trật để bổ khí, nhục đậu khấu, nhục quế để điều huyết, đi ra trắng, đỏ nhầy dính, bụng đau liên miên, nóng trong buồn bực, miệng khô ớn sốt về chiều, sức yếu, mệt mỏi dùng bài Trú Xa Hoàn (152) gia giảm

 

 

Bài viết cùng danh mục

Thông báo

Hoặc gọi 096.4343.168