17./ ÁCH NGHỊCH (Nấc)

127 lượt xem

Nấc là khí xông ngược lên, trong họng phát ra tiếng, ngắn và mau, khiến người ta không tự chủ được; bệnh này phát tự nhiên,
không dùng thuốc cũng khỏi. Nếu nấc lâu cần phải chữa trị. Bệnh này thường xuất hiện với các bệnh mãn hoặc bệnh cấp khác, là một trong những triệu chứng dẫn đến bệnh nghiêm trọng.

Nấc là khí xông ngược lên, trong họng phát ra tiếng, ngắn và mau, khiến người ta không tự chủ được; bệnh này phát tự nhiên,
không dùng thuốc cũng khỏi. Nếu nấc lâu cần phải chữa trị. Bệnh này thường xuất hiện với các bệnh mãn hoặc bệnh cấp khác, là một trong những triệu chứng dẫn đến bệnh nghiêm trọng.

Nguyên nhân bệnh lý.

Nắc chủ yếu là do vị khí ngược lên. Bình thường dạ dày là tiếp thu ăn uống và đưa xuống. Nếu do suy yếu hoặc ảnh hưởng ngoại tà khiến vị khí không đi xuống gây nên, chủ yếu là :

1) Ăn uống không điều độ, ăn uống nhiều thứ sống lạnh hoặc uống thuốc mát, khiến khí lạnh ngưng lại bên trong khiến vị dương cản trở; Nếu ăn nhiều các thứ cay nóng hoặc uống thuốc nóng khiến táo nhiệt bên trong đều gây nên nác.

2) Tình thần uất ức, tỉnh khí không hòa, khí uất hóa hỏa, can hòa phạm vị cùng với đòm trợ gây trở ngại, khiến vị khí đi ngược lên gây nắc.

3) Lao lực quá độ khiến khí bị hao thương hoặc người già yếu, bệnh ốm lâu tỷ vị dương suy, thanh khí không thâng, trực khíkhông giảng: Hoặc bệnh nhiệt, tân dịch khô hao, hoặc sau khi thổ tả, vị dịch bị hao kiệt, hư hỏa bốc lên cũng gây nác.

Biện chứng luận trị

Bệnh nấc trước hết phải phân hàn, nhiệt, hư thực, cách chữa là giáng khí, hòa vị, chữa nấc là chính; ví dụ : Hàn thì ôn, nhiệt thì thanh, hư thì bỏ, thực thi công; Nếu trường hợp bệnh nặng mà nấc xuất hiện tức là nguyên khí suy yếu phải ôn bổ tỳ thận, bổ nguyên khí hoặc tư âm, bỏ tân dịch ngay; cụ thể có mấy loại như sau:

1) Vị bị lạnh: tiếng nấc trầm và thưa, dạ dày không yên, được ấm nóng là đỡ, ăn ít, không khát. Lưỡi trắng nhuận, mạch trì hoàn.

- Phân tích : Do hàn tà trở ngại bên trong, vị không được hòa giải, khí đi ngược lên gây ra nấc. Vị trí không hòa, thăng giáng không đều nên buồn bực, ấm thì giảm, lạnh thì tăng vì trong lạnh, được ấm nóng dễ lưu thông. Trong ngoài đều lạnh thì bệnh càng tăng; và lại trong dạ dày lạnh nên ăn ít, không khát, lưỡi trắng nhợt, mạch trì hoãn.

- Cách chữa : Ôn trung, tán hàn.
Thuốc dùng bài đinh hương tản (5)

Trong bài dùng đinh hương, thị đế, lương khương để ôn trung tân hàn, lý khí, giáng nghịch. Nếu hàn nặng thì gia nhục quế, ngô thứ để ôn dương, tán hàn, giáng nghịch. Nếu có đờm trẻ, bụng buồn bực ở hơi có mùi thì giá Hậu phác, chỉ thực, trần bì để hành khí, hóa đòm, tiểu trệ.

2) Vị hỏa ngược lên: Tiếng nấc trong, mạch nác đồn, miệng hỏi, buồn bực, khát nước, mặt đỏ, đại tiện bí, lưới vàng, mạch hoạt sác.

- Phân tích : do thức ăn và đờm trọc lâu ở vị, uất lại hóa hỏa (nóng), vì hỏa xăng ngược lên nên tiếng nắc trong, mạnh và liên tục; nhiệt thịnh nên miệng hôi, khát nước, tiện bí, mặt đỏ, lưỡi vàng, mạch hoạat sac.

Cách chữa: Tiết nhiệt thông phủ.

- Thuốc dùng bài tiểu thừa khí thang (36).

Trong bài dùng đại hoàng, chỉ thực, hậu phác để tiết nhiệt, thông phủ, (tràng vị thuộc phủ) khoan trung hành khí. Nếu nôn mửa ra đờm dục gia bán hạ, trần bì, trúc nhự để hóa đờm giáng nghịch.

3) Tỳ thận dương hư: Tiếng nấc nông và yếu, đoàn hơi, sắc mặt nhợt, chân tay mát, ăn ít, mệt mỏi, lười trắng nhợt, mạch trắm tế

- Phân tích : Do tỳ vị hư nhược, vận hóa kém, khí hư ngược lên nên tiếng nấc cạn và yếu: doãn khí, mệt mỏi, hơn nữa thì tỷ dương hư, nguồn sinh hóa thiếu. Sắc mặt nhợt nhạt chân tay không ấm, dẫn đến thận không quy nạp được khí sẽ nấc kéo dài, liên tục là bệnh đã trầm trọng.

Cách chữa: ôn bổ tỳ, thận, hòa vị giáng nghịch.

Thuốc dùng bài: phụ tử lý trung thang (120) gia giảm đề trợ dương kiện tỳ, gia đình hương để ôn trung giáng nghịch. Nêu nấc không giảm hợp với bài toán phúc đại giả thang (230) để thuận khí trấn nghịch: Nếu bệnh nghiêm trọng, dẫn đến thận khi không thu nạp được gia tử thạch anh, phá cố chỉ để bổ thận nạp khí.

4) Vị âm yếu: Tiếng nấc nhanh mà không liên tục, miệng khô họng ráo, phiền khát buồn bực, lười khô đỏ, mạch tố sác
Phân tích : Do vị âm thiếu, vị nhiệt trên hao tân dịch, vi không được nhu nhuận, mất sự hòa giáng nên nác nhanh và không đều, miệng khô, họng ráo, phiền khát, buồn bực, lưới khô đỏ mạch tế sác là biểu hiện của âm dịch khô hao.

- Cách chữa : sinh tân dưỡng vị.

Thuốc dùng bài: Ích vị thang (190) gia tỷ hà diệp, thạch hộc, thị đế để giáng nghịch chữa nấc.

Bài viết cùng danh mục

Thông báo

Hoặc gọi 096.4343.168