9- Cách để Ẩm chứng - Bệnh Đàm ẩm khỏi nhanh và dễ dàng

127 lượt xem

Ẩm chứng là tủy dịch ở một bộ phận trong cơ thể đình tích lại không chuyển hóa được . Sách Nội kinh đã sớm cho là " tích ẩm " , kim quỹ yếu lược cho là " đàm ẩm " là do uống rồi nước định tụ lại từng bộ phận khác nhau . Trong phạm vi rộng bệnh đờm ẩm chia làm 4 loại . Ở tràng vị gọi là " đờm ẩm " , ở dưới hông sườn gọi là " huyền ẩm " , Lưu tán ra tứ chi gọi là " dật ẩm " , ở ngực phối gọi là " chi ẩm " ; Ngoài ra còn có các loại " vi ẩm " , " lưu ẩm " phục ẩm " , trên thực tế cũng thuộc 4 loại trên . 

Trên lâm sàng thường có ở các bệnh mạn tính viêm phế quản , hen suyễn , viêm phúc mạc , công năng của tràng vị ( ruột và dạ dày ) rối loạn , trĩ , lỵ . Cần tham khảo để phân tích và điều trị .

ẨM CHỨNG : Nguyên nhân và bệnh lý : 

Bệnh này , phát sinh có 2 nguyên nhân , bên trong và bên ngoài . 

Nguyên nhân bên trong là do dương khí kém không vận hóa được thủy dịch . Nguyên nhân bên ngoài là bị hàn thấp xâm nhập hoặc ăn uống không điều độ khiến dương khí bị mất không vận hóa được gây nên . Trong quá trình phát bệnh , 2 nguyên nhân ấy thường ảnh hưởng và tác động lẫn nhau . 

a ) Do ngoại cảm hàn thấp : 

  • Như cảm nhiễm khí hậu ẩm lạnh dầm nước , ngoài hàn thấp : ngoài biểu và phần vệ khí bị tổn thương dần dần vào lý .
  • Dương khí nội tạng do đó bị khốn đốn , không chuyển hóa được súc tích lại thành bệnh . 

b ) Do ăn uống : 

  • Như uống nhiều nước lạnh hoặc ăn các thứ sống lạnh; nóng lạnh thương tổn bên trong; dương khí bị uất cản trở đến chức năng vận hóa của Tỳ đình trệ lại thành ẩm .
  • Như sách kim quỹ yếu lược : “ Uống nhiều ắt phát đầy thở " , " ăn ít uống nhiều nước định dưới vùng tim " ý nói rằng uống nhiều hoặc ăn ít uống nhiều, nước đình lưu lại thành bệnh “ẩm " ( ẩm là uống chứ không phải ẩm thấp ) , 

c ) Dương khí hư nhược : 

  • Thủy dịch trong cơ thể mà không lưu thông chuyển hóa ; Dương khí bị suy yếu , người già hoặc ốm lâu khiến tỳ thận dương bị yếu , thủy dịch không chuyển hóa được định tích thành bệnh ẩm . 
  • Đối với bệnh này tỳ , phế , thận đều có sự thống nhất trong cả quá trình chuyển hóa , trong đó việc điều hành thủy dịch đi xuống thì phế có tác dụng chính , phối hợp với chức năng hấp thu của tỳ và chức năng chưng cất và phân thanh trọc của thận ; khí ở ba tạng ấy đầy đủ thì công năng hấp thu , vận hành và bài tiết thủy dịch tốt . Trong ba tạng ấy thì dương khí của tỳ và thận là chủ yếu . Về mặt bệnh lý đều có ảnh hưởng đến ba tạng ; Nếu như bị cảm hàn thấp , trước hết phạm vào phế sau đến tỳ rồi tổn thương đến thận ; Nếu như do ăn uống trước hết tổn thương tỳ sau đến phế và thận . 
  • Bệnh ẩm thuộc dương hư trong tỳ thận là chính song cũng đi ngược lên ảnh hưởng vào phế , do đó khi chẩn đoán và điều trị cần chọn ra phân biệt những loại hình . 

 

- Bệnh chứng luận trị : 

Bệnh ẩm trước hết phải xác định ẩm tà ở bộ phận nào để từ đó mà có cách điều trị . Nếu ẩm lưu ở tràng vị ( dạ dày và ruột ) thì vùng bụng và rốn có tiếng nước ọc ạch , uống vào hay nôn ; ở phế thì ho thở đờm rãi nhiều ; ở hông sườn thì thấy hông sườn đau tức , ho thở đau nhiều ; ở bàng quang thì vùng bụng dưới và hố chân đau thắt hoặc căng tức , tiểu tiện ít , khó đi ; đồng thời phải căn cứ vào những đặc điểm như âm hư dương thịnh hoặc gốc , ngọn , mãn hay cấp để điều trị . Về mặt này sách Kim quỹ yếu lược nói : " Cần phải thông tin , lợi thủy , trục ẩm , ôn tán v.v ... " và nói rõ " Chữa bệnh đờm ẩm phải dùng thuốc ôn , thuốc hòa " . Nếu bệnh ẩm là tà gặp lạnh thì ngưng , gặp ấm thì tan , những cách chữa như trên đều phải chú ý đến thuốc ôn và hòa ; Nếu thuộc dương hư thì phải kiện tỳ , ôn thận là chính . 

Bệnh ẩm có mấy thể loại như sau : 

1. Âm và tích ở phế : 

- Có các triệu chứng : 

Ho , thở , hông ngực đầy tức , thậm chí không nắm được , đờm rãi nhiều , gặp lạnh phát tăng , ban đầu có sốt, sợ lạnh , đau mình , rồi mặt phù nhẹ , lưỡi nhợt , mạch huyền khẩn. 

Phân tích : 

Do ẩm tà tích vào phế gây trở ngại sự thông giáng của phế khí và do cảm nhiễm phong hàn gây nên , mặt phù nhẹ cũng do thủy khí theo ho thở bốc lên .

- Cách chữa : ôn phế , hóa đờm , định suyễn , chữa ho . 

- Thuốc dùng bài ôn phế hóa ẩm thang ( 252 ) gia giảm . 

Nếu bệnh lâu hóa thành nhiệt uất , dưới vùng tim nhói tức , miệng khát , buồn bực , mặt xám , lưỡi vàng , mạch trầm khẩn nên hành thủy , tán kết , thanh nhiệt , bổ hư ; Dùng bài mộc phòng kỷ thang gia giảm ( 52 ) sau khi uống thuốc thấy đỡ nhói tức dưới vùng tim thì bỏ thạch cao , gia Bạch linh , phác tiêu để thông thủy kết tán . 

2. Âm đình trệ ở hông bụng : 

- Có các triệu chứng :

Hông bụng đầy tức , ho , ra nhiều đờm rãi , khí cơ , khi ho thở đau nhiều hoặc thở ngắn hơn , lưỡi trắng , mạch huyền . 

- Phân tích : 

Hông ngực là nơi thăng giáng của khí cơ , khi bị ẩm đình trệ gây trở ngại nên hông ngực đau tức khi ho thở mạnh và cử động mạnh , ẩm bức bách lên phổi nên ho thở và đờm rãi , đoãn hơn . 

- Cách chữa : Công trục thủy ẩm 

- Thuốc dùng bài : Thập táo thang ( 9 ) gia giảm . 

  • Trong bài có cam toại , nguyên hoa , đại kích có sức trục thủy rất mạnh nên dùng liều lượng vừa phải và cẩn thận ;
  • Nếu bệnh nhẹ hoặc cơ thể yếu dùng bài đình lịch đại táo tả phế thang ( 260 ) hợp tam tử thang ( 16 ) gia giảm . 

3. Ẩm lưu ở tràng , vị : 

- Có các triệu chứng :

Người gầy , ăn ít , hay nôn mửa , sôi bụng hoặc có tiếng nước ọc ạch , phân lỏng , sợ lạnh , có khi choáng đầu , hoa mắt , thở ngắn , giật mình sợ sệt , lưỡi trắng , mạch huyền hoạt . 

- Phân tích : 

Chức năng vận hóa của tỳ vị kém nên ăn ít, tiếp thu chất dinh dưỡng kém nên người gầy ; Thủy ẩm đình lưu ở tràng vị không chuyển hóa được nên bụng sôi , có tiếng nước , nôn mửa , phân lỏng ; đau đầu chóng mặt , sợ lạnh , phát sốt là do thanh dương bị ẩm tà cản trở . Thủy ẩm bức bách lên tâm phế nên thở yếu , đoãn hơi giật thót . 

- Cách chữa : ôn dương lợi thủy . 

- Thuốc dùng bài : Linh quế truật cam thang ( 151 ) để ôn tỳ lợi thủy ẩm .

  • Trong bài dùng phục linh để thấm và đưa thấp xuống dưới ; Quế , cam thảo để thông dương hóa khí . Bạch truật để kiện tỳ khử thấp ;
  • Nếu nôn mửa gia bán hạ , sinh khương để hòa vị chữa nôn mửa , dương khí nhiều gia can khương dùng với nhục quế để hỗ trợ và làm ẩm phần dương .
  • Bệnh nặng bụng ngực đầy tức đại tiện bí , họng ráo miệng khô , lưỡi vàng , mạch trầm huyền là do ẩm tà lưu tích ở tràng vị hóa thành nhiệt cần phải lợi thủy trục ẩm , dùng bài kỹ tiêu khương hoàng hoàn ( 22 ) để khiến thủy ẩm được phân tiêu ra đại tiểu tiện . 

4. Ẩm súc ở bàng quang : 

- Có các triệu chứng :

Bụng dưới đầy tức , tiểu tiện ngắn sát khó đi , choáng đầu hoa mắt , lưỡi trắng , mạch huyền hoạt . 

- Phân tích :

Do bàng quang bị đình ấm cản trở đến khí hóa nên bụng dưới đầy tức , tiểu tiện ngắn dắt ; Choáng đầu hoa mắt cũng do thủy khí tràn lên . 

- Cách chữa : Hóa khí hành thủy . 

- Thuốc dùng bài : Ngũ linh tán ( 48 ) . 

  • Trong bài dùng quế chi , bạch truật để ôn dương hóa khí . Chư linh , trạch tả , Bạch linh để dẫn và đưa nước xuống dưới , cùng giúp sức cho hành thủy hóa khí . 
  • Nếu bụng dưới đau thắt và có cảm giác lạnh , thở gấp , ngắn hơi , mạch trầm tế là thận dương hư tổn nặng nên gấp ôn bổ thận dương , gia phụ tử , nhục quế . 
  • Bệnh này trong kim quỹ yếu lược nói đến loại dật ẩm ; có triệu chứng chân tay phù , người nặng nề , thuộc loại bệnh phù thũng . Trong y tôn kim giảm cho là phong thủy , bì thủy ( phù da ) . Hai loại này không trong phạm vi của bệnh ẩm , nhưng có ảnh hưởng lẫn nhau , 

Tóm lại

Bệnh ẩm là do dương hư âm thịnh gốc bệnh là hư , triệu chứng là thực , gốc là tỳ thận dương hư không vận hóa dược thủy dịch và thức ăn uống . Ngọn là thủy dịch do ăn uống đình tụ lại nên cách công tà chủ yếu là trục ẩm , lợi thủy . Cách bổ chính chủ yếu là kiện tỳ ôn thận , đến khi bệnh tạm ổn tiếp tục ôn bổ tỳ thận đồng thời đề phòng ngoại tà xâm nhập trong quá trình điều trị , 

 

Bài viết cùng danh mục

Thông báo

Hoặc gọi 096.4343.168