VÔ ĐỐI MÔN - LÝ TỨ - PHẦN 5

127 lượt xem

Cái ngã đã đi vào con mắt, đi vào lỗ tai, đi vào nghĩ suy để làm quan tòa phán xét mọi việc theo chủ kiến của mình. Nó làm hai công việc cùng một lúc: vừa đá bóng vừa thổi còi. Cái ngã hư dối hiện diện khắp mọi nơi. Nó rao giảng chân lý theo cách nhìn của nó. Nó đánh giá tất cả theo quan điểm của nó

8. NHẬN THỨC THƯỜNG, NGÃ, LẠC, TỊNH CỦA SƠ NGỘ

Hỏi: Thưa ân sư! Hôm qua, sau khi chia tay người, trên đường về, con như người đã đặt gánh nặng xuống. Con chiêm nghiệm, đúng là cái ngã này luôn hiện hữu trong ta nhưng lại khó thấy khó biết. Nó giống như con mắt, nhìn thấy tất cả nhưng không nhìn thấy chính nó.

Cái ngã đã đi vào con mắt, đi vào lỗ tai, đi vào nghĩ suy để làm quan tòa phán xét mọi việc theo chủ kiến của mình. Nó làm hai công việc cùng một lúc: vừa đá bóng vừa thổi còi. Cái ngã hư dối hiện diện khắp mọi nơi. Nó rao giảng chân lý theo cách nhìn của nó. Nó đánh giá tất cả theo quan điểm của nó.

Nói chung, nó bắt người trí thành kẻ ngu, bắt người sáng thành mù tối, bắt kẻ đang thong dong trở thành nô lệ. Tuy nó hiện diện khắp mọi nơi, có mặt trong mọi lúc, nhưng khó nhìn ra, khó thấy được. Người không từ bỏ cái ngã mà cầu giải thoát thì cũng giống như kẻ ôm tảng đá lớn cầu bơi sang sông.

Không bỏ cục đá này xuống thì trên đường đời còn đi không đến nơi, huống chi là xây mộng qua sông. Cái ngã quái ác này, nếu không đủ duyên lành để gặp ân sư, có lẽ nó sẽ đeo đuổi con đến tận cùng đời vị lai. Thưa ân sư!

Suốt đêm, con ngồi tĩnh lặng trong cái vô ngã, hỷ lạc khinh an tràn đầy. Trong cái hỷ lạc khinh an ấy, con thấy mình sáng ra, không còn mù tối như trước đây. Đến gần khuya, hai chân của con tê nhức. Con nhìn ngắm nó, nhận ra cái đau nhức ấy không làm cho an lạc trong con mất đi, mà càng nhìn ngắm, an lạc càng tăng.

Con nghiệm ra, cảm thọ này chỉ do duyên hiệp, mà cái gì có hiệp nhất định có tan, như hai bàn tay chà vào nhau thì sinh hơi ấm, hai bàn tay rời nhau, hơi ấm tự diệt.

Ngã hư dối cũng thế, nó không thật. Khi xúc đối duyên, cho dù là ngoại duyên hay nội duyên mà để cho các duyên này hòa hiệp rồi mê mờ, nhất định ngã sẽ sanh, giống như hai bàn tay hòa hiệp, liền có hơi ấm. Thưa ân sư! Một khi ngã đã không còn hiện hữu, thì các cảm thọ cho dù khổ hay vui, cũng đều an lạc. Suy nghĩ đến đây, con mới hiểu ra, thế nào là đức tính an lạc của Niết Bàn. Khi ngã nhận khổ vui không còn, thì lạc thọ xuất hiện, hèn gì Phật dạy: “Quán thọ thị khổ”1.

Con lại quán tiếp thân này. Con quán từ ngón chân đến đỉnh đầu, quán từ da xương đến nội tạng, đúng là chẳng nơi đâu có ngã. Khi xong phép quán, con thấy thân này đồng như hư không, chỉ còn cái biết, tức trí thân này tồn tại. Con lại chiêm nghiệm tiếp, nếu ta từ bỏ, không nương tựa vào sắc thân này, không nương vào cái ngã để bảo rằng sắc thân này là của ta, thì bây giờ chỉ còn lại trí thân thanh tịnh. Con nhận ra, vì sao Phật dạy quán thân bất tịnh. Bây giờ, con mới hiểu được đức Tịnh của Niết Bàn.

Cho đến gần sáng, câu nói của ân sư hiện rất rõ trong con: “Ông với tôi cùng quy y Tứ Đế”. Khi chiêm nghiệm câu nói này, con chợt thấu suốt vì sao phải quy y Tứ Đế và vì sao Đạo Đế lại đi sau Diệt Đế.

Con chợt mỉm cười với suy nghĩ của mình. Cái ngã mèo chó này khi nào còn ngự trị thì làm sao mà sư tử xuất sanh? Diệt Đế chính là tánh mèo chó chết đi, mới có dịp sanh vào dòng sư tử. Có sanh vào dòng sư tử thì mới học cái đạo săn bắt của sư tử.

Học các loại đạo diệt khổ cho chúng sanh mới chân thật học cái đạo làm Phật. Thành tựu đạo làm Phật mới gọi là Phật Đạo.

Ngày xưa, con vẫn đinh ninh rằng: Phải có Đạo để tu hành, thì cái diệt mới chứng. Đâu ngờ, Đạo Giác Ngộ không thể lấy phàm tình mà hiểu ý thánh. Câu nói của Bậc Đạo Sư lại văng vẳng bên tai con: “Đây là đạo diệt khổ các ông phải tu học”.

Câu này, bây giờ cho con vỡ lẽ nhiều điều. Câu nói của bậc đạo sư vô thượng, người hiểu sai lại lấy làm của mình, cho nên giáo pháp trở nên lộn xộn. Thì ra người tu hành tưởng rằng cái mình đang tu hành đó là Đạo Đế, thật ra cái mà họ đang phân tích, thực hành, ứng dụng, thuộc Trạch Pháp Giác Chi2. Trạch Pháp Giác Chi chính là phân tích cho đến cội nguồn của một pháp để Giác Ngộ.

Giác Chi mà lầm thành Chánh Đạo, cho nên chẳng thấy được Bát Chánh Đạo nằm sau Thất Giác Chi. Chưa hoàn thành các Giác Chi để chứng Giác Ngộ Diệt Đế, thì làm gì mà học được các thứ Đạo Diệt Khổ của chư Phật. Con lại chiêm nghiệm về Ngũ Phần Hương3, đúng là có chứng Diệt Đế Giải Thoát rồi, thì Giải Thoát Hương mới hiện. Có tu học tất cả các môn Giải Thoát của Phật Đạo đến thành tựu thì Giải Thoát Tri Kiến Hương mới lan tỏa.

“Đây là đạo diệt khổ các ông phải học” lại hiểu nhầm thành cái mình đang ứng dụng để diệt khổ cho tự thân. Phải chi câu nói đó đổi thành: “Đây là các môn diệt khổ của chư Phật ba đời, các ông phải tu học để sau này giúp người”, thì đâu có khiến người hiểu lầm để rồi không có đường ra.

Thưa ân sư! Chỉ có sư tử con mới cảm được tiếng gầm của sư tử chúa; chỉ có kẻ một phen Giác Ngộ thật sự mới thấu hiểu phần nào đó ý nghĩa lời kinh. Thưa ân sư! Ân đức mà người đã biến con từ con chó, con mèo trở thành dòng giống sư tử biết ngày nào mới đền đáp được đây? Xin người cho con theo chân tới tận cùng đời vị lai, để được hầu hạ người, mong học “cái đạo diệt khổ của ba đời chư Phật” tìm ra chân lý trong muôn vàn cái khó. Xin Ân Sư hứa khả!

Đáp: Đạo diệt khổ của Chư Phật, chẳng phải của riêng tôi. Đạo pháp không phải gấp, nếu đủ duyên thì chung đường, đâu cần cầu thỉnh.

Hỏi: Thưa Ân Sư! Kẻ sơ ngộ, trong bốn đức Thường, Ngã, Lạc, Tịnh của Niết Bàn, chỉ mới có chút manh mối về Lạc và Tịnh, vì rằng hai thứ này hiện rõ trong trí thân, và cảm thọ. Còn Ngã và Thường thì như thế nào, xin người cho con chút ánh sáng!

Đáp: Giác Ngộ Diệt Đế Giải Thoát chỉ mới chớm thấy được hai đức tính đầu là Lạc và Tịnh của Niết Bàn như ông vừa mới nói. Còn hai đức sau là Ngã và Thường thì chỉ khi nào thành tựu Đạo Đế, tức học xong các môn Giải Thoát của chư Phật, gọi là thành tựu Nhất Thiết Trí, nhất định ông sẽ tự hiểu ra. Sẽ tự hiểu ra này, giống như ông hiểu về sơ nghĩa của hai chữ Lạc, Tịnh.

Nói về sơ nghĩa của Lạc và Tịnh, những điều ông vừa nêu, chỉ là cái hiểu của “sơ tướng Giác Ngộ”, đừng lấy đó làm tự mãn, vì rằng bốn đức Thường, Ngã, Lạc, Tịnh của Đại Niết Bàn chẳng giống như mấy thứ đức nhỏ nhoi của Tiểu Niết Bàn mà ông vừa phát hiện. Mặc dù người liếm mép đĩa mật, vị ngọt chẳng khác người ăn nguyên đĩa mật, nhưng vị ngọt của mép đĩa mật chưa đủ để tiêu trừ hoàn toàn căn bệnh vô minh.

Vì thế, hãy tiếp tục chiêm nghiệm, hãy tiếp tục tư duy, hãy tiếp tục làm cho cái ngã hư dối hoàn toàn tiêu thất.

Nếu rảnh rỗi, nên tụng đọc các kinh giáo Bồ Tát, nhớ chỉ đọc phần chánh kinh văn, đừng đọc lời giảng giải, vì trong lẫn lộn giữa vàng và đá của lời giảng giải, vàng thì quá ít, thậm chí không có, còn đá thì quá nhiều. Sức của ông chưa đủ phân định đâu là vàng đâu là đá. Có khi lại ôm nhầm đá mà tưởng là vàng, chỉ tội cho công cất giữ.

Hỏi: Thưa Ân Sư! Khi nghe lời vừa rồi của ngài, con lại phát hiện ra một điều, đó là ý nghĩa của Kham Nhẫn Ba La Mật1. Phải rồi, ngày xưa con hiểu ý nghĩa của hai chữ kham nhẫn trở thành nhẫn nhục của người đời, hiểu không đúng, vì thế con suy diễn, người tu hành mà kham nhẫn trở thành kẻ tiêu cực. Bây giờ con mới biết, kham nhẫn thuộc Bồ Tát Đạo.

Bồ Tát dạy người tu hành giống như nghệ nhân trồng kiểng, phải biết kham nhẫn, chưa đúng thời, các chi (nhánh) chưa già thì chớ có bẻ uốn, chưa có nắng gắt để nhựa bớt đi thì chớ có mạnh tay. Cành nhánh mà chưa già, khi uốn cây sẽ bị suy, khó phát triển, nhựa chưa bớt đi mà bẻ nhánh, nhánh này dễ gãy.

Người tu hành chưa thuần thục nghĩa trước thì Bồ Tát phải biết kham nhẫn, đợi thời cơ chín muồi mới có thể dạy pháp sau, nóng vội sẽ hư. Vì thế, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật mới dạy một Pháp Sư phải hội đủ ba pháp, đó là: Vào nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi tòa Phật. Vào nhà Phật là vào tâm lượng Từ Bi, mặc áo Phật là phải biết nhẫn nại chờ đúng thời cơ mới tuyên nói Giáo Pháp, ngồi toà Phật là phải ngồi tòa rỗng rang. Mỗi lời nói, mỗi ý nghĩa, mỗi bước dặn dò của Ân Sư đều là bài pháp giúp con hết u tối.

Đáp: Ông đúng là cơ trí bén nhạy. Ngày sau, ông sẽ thành tựu nhiều pháp lành.

Hỏi: Con thường hay nghe nói, người tu hành Giác Ngộ, không thấy năng sở 2. Lại còn nghe các bạn tu hay nói: “Thấy như không thấy, nghe như không nghe”. Con tuy Giác Ngộ chưa sâu, nhưng cũng chẳng còn là người u tối như hồi xưa.

Cái sự nghe, nhìn của con hiện giờ sáng suốt, thanh tịnh, không bị buộc ràng, luôn luôn an lạc. Tuy có sáng suốt, tuy được thanh tịnh, tuy không buộc ràng, tuy luôn an lạc, nhưng năng thấy của con không mất, sở thấy của con vẫn còn, khiến con có chút hoài nghi về mình. Xin Ân Sư chỉ điểm!

Đáp: (cười lớn) Ông hiểu sai hai chữ năng sở trong Phật Đạo rồi, nên tâm phát sinh nghi ngờ.

  • Người Giác Ngộ càng sâu, thấy biết càng minh bạch, giống như tấm kiếng không bụi thì cảnh hiện rõ.
  • Nói không năng sở là: Nói trong không sinh năng tâm, ngoài không sinh sở pháp chứ chẳng phải nói không có thấy nghe. Không năng sở là: tâm không chấp năng tạo, ý không duyên sở tác,.. chứ chẳng phải không thấy biết sự việc.
  • Có thể hiểu, người đã Giác Ngộ, thấy nghe sự việc rất rõ, nhưng tâm không sinh đối đãi, thường như như bất động, ý thì biết sự việc tỏ tường, nhưng chẳng sinh quan niệm đây kia.
  • Không năng tâm sở tâm, không năng pháp sở pháp, chứ chẳng phải tai ù mắt tối, ông chớ có hiểu lầm! Không tai ù mắt tối, thì thấy nghe thế nào mà lại nói, thấy như không thấy, nghe như không nghe?
  • Người Giác Ngộ chân chánh không bao giờ nói thế, bằng hữu của ông có ai đã thật sự Giác Ngộ đâu mà ông phải tin lời họ. Trong Phật Đạo, chỉ nói đến tâm và pháp, rời hai thứ này, chạy theo phân tích các duyên bên ngoài, muôn đời khó Giác Ngộ. Ông chớ quên điều này!

 

 

9. PHÁP MÔN “TỐI THƯỢNG THỪA”

Hỏi: Ông tu theo pháp môn gì?

Đáp: Tôi chỉ đọc tụng kinh điển của Phật, tư duy nghĩa lý, rồi ứng dụng vào đời sống, chứ không theo pháp môn nào.

Hỏi: Pháp môn là phương tiện, giống như các phương tiện giao thông xe cộ, tàu bè. Phương tiện tốt, giúp người ta di chuyển nhanh hơn. Với người tu hành cũng như vậy, hãy tìm cho mình một “phương tiện” thì mới có thể di chuyển nhanh chóng được. Ví dụ, người đi máy bay sẽ đến nơi nhanh hơn người đi xe hơi, người đi xe hơi sẽ đến nơi nhanh hơn người đi xe gắn máy, người đi xe gắn máy sẽ nhanh hơn người đi xe đạp, người đi xe đạp sẽ nhanh hơn người đi bộ,… Không tìm cho mình một pháp môn thượng thừa, tu hành biết bao giờ mới đến nơi. Vì thế, tôi khuyên ông, hãy theo một pháp môn. Tôi đây, chuyên tu theo pháp môn Tối Thượng Thừa.

Đáp: Tôi thì đi trên đôi chân của mình, nên gặp gì dùng nấy. Sang sông nhờ bè, qua mương phải nhảy, lên núi dùng gậy, đường bộ đón xe,… Xưa nay, tôi vẫn thực hành như vậy, cho nên trong lòng chẳng thấy thứ nào là tối thượng cần coi trọng, chẳng thấy thứ nào nhỏ bé đáng khinh chê.

Như vậy, nếu chỉ dùng một phương tiện, liệu có ổn không? Ví như người đi xa, qua nhiều địa hình phức tạp, chỉ có một chiếc xe hơi, thì làm sao qua sông, leo núi? Cho hỏi thêm một điều, nếu ông nói như vậy, chắc là cái ông gọi là “pháp môn Tối Thượng Thừa” của ông hình như là cao siêu lắm phải không?

Hỏi: Tất nhiên Tối Thượng Thừa phải hơn hẳn các pháp khác. Chỉ bậc đại căn mới có thể lãnh hội được pháp môn này.

Đáp: Ông tu hành trong pháp môn Tối Thượng Thừa này được bao nhiêu lâu rồi?

Hỏi: Gần 30 năm.

Đáp: Ông có thường xuyên dùng phương tiện (pháp môn) đó hay không?

Hỏi: Tất nhiên đã là pháp môn, tôi đâu có bỏ, chưa nói vì Tối Thượng Thừa nếu không là đại căn thì đâu có dễ học được.

Đáp: Rất hoan nghênh pháp môn Tối Thượng Thừa. Rất hoan nghênh được làm quen bậc đại căn như ông. Gần 30 năm, chắc ông đã đi được một đoạn đường rất xa rồi phải không?

Hỏi: Tất nhiên có đi phải có đến, chỉ trừ người không đi, hoặc không có phương tiện tốt để mà đi.

Đáp: Rất ngưỡng mộ những điều ông nói. Xin hỏi, đi lâu như vậy, hiện nay ông đã đến đích hay chưa? Hoặc ông đã đến đâu trong Phật Đạo?

Hỏi: Đi mà không thấy mình đi, đến mà không thấy mình đến thì mới gọi là đi mau đến mau.

Đáp: Đi mà không thấy mình đi, thì cần gì cái pháp môn Tối Thượng Thừa như ông nói? Còn bảo rằng đến mà không thấy mình đến, thì biết đi đâu và đến đâu?

Hỏi: Cái này chỉ có bậc đại căn mới biết. Mà bậc đại căn thì trên đời hiếm như hột xoàn, kim cương, chứ đâu có nhiều như lá mùa thu, như nấm sau mưa.

Đáp: (cười lớn) Ông nói nghe có lý. Tôi cũng có nhiều bằng hữu tu hành là bậc đại căn như ông, thành ra nói rằng hiếm như hột xoàn, kim cương, có lẽ chúng ta nên coi lại.

Theo tôi biết, bậc đại căn như ông thì nhiều như lá mùa thu, như nấm sau mưa mới đúng. Tôi vẫn thường gặp họ hàng ngày, ra khỏi cửa là gặp rồi, đâu cần phải đi xa. Không tin, tôi gọi một tiếng, họ sẽ đến ngay, và trong các vị ấy, vị nào cũng khẳng định mình là bậc đại căn.

Hỏi: Ông là người ngã mạn1

Đáp: Tôi ngã mạn ở chỗ nào? Xin ông hãy chỉ rõ.

Hỏi: Ông nói bậc đại căn nhiều như lá mùa thu, như nấm sau mưa, không phải là ngã mạn hay sao?

Đáp: Điều tôi nói đều là sự thật. Bằng hữu của tôi đông lắm, ai cũng tự xưng mình là đại căn, tu theo pháp môn Tối Thượng Thừa. 20 năm trước họ nói thế, 10 năm sau, họ cũng nói thế, và hiện tại gặp tôi, họ vẫn nói thế. 20 năm quen nhau, tôi chưa từng thấy người nào thay đổi, chỉ có thân thì già đi, chứ lời nói không đổi khác... Nhiều lúc tôi thầm nghĩ, không lẽ các bằng hữu này tu hành mãi, khiến lời nói trở thành thường rồi chăng? 30 năm rồi, cũng chỉ nói mấy câu như thế. Người nói thật như tôi, ông lại bảo ngã mạn, như vậy nói thế nào mới không ngã mạn đây?

Hỏi: Những người nào tự khen mình, chê người, kẻ đó là ngã mạn.

Đáp: Hoan hô một định nghĩa có thể dùng tạm trong lúc này. Nhưng tôi đâu có tự khen tôi, cũng đâu có chê ai? Vì thế, kết luận tôi là kẻ ngã mạn, có lẽ hơi… oan ông Địa.

Hỏi: Ông nói đại căn hành Tối Thượng Thừa như tôi, nhiều như lá mùa thu, há không phải là chê người hay sao?

Đáp: Nhiều tôi nói nhiều, ít tôi nói ít, đây là sự thật. Nếu không lầm, bước ra đường là gặp bậc đại căn rồi. Tôi tin ông cũng thường gặp những người như thế. Chỉ tại ở đây ông không dám công nhận sự thật này mà thôi. Nhưng lá mùa thu, hay nấm sau mưa, còn tùy loại chứ tôi đâu “vơ đũa cả nắm”? Từng tuổi này, không lẽ tôi không phân định lá nào xài được, lá nào bỏ đi, lá nào đem để dành, lá nào rụng xuống mất công quét dọn? Nhưng theo tôi biết, lá dùng được có ích thì ít. Nấm cũng thế, có loại ăn được, có loại ăn vào chết vì ngộ độc ngay tức thì. Nấm dại ăn vào chết thì nhiều, thông thường cây nấm nào nhiều màu sắc, màu sắc càng sặc sỡ thì nấm đó cực độc, ăn vào chết không kịp trăng trối. Đời đã dạy như thế, chắc ông cũng biết.

Thôi, chuyện đại căn tiểu căn để đó. Mời ông uống trà. Trà nguội uống không ngon.

Hỏi: Trà ngon thiệt, lần đầu tiên tôi mới được thưởng thức trà ngon, ông đúng là người biết dùng trà. Xin hỏi trà này mua ở đâu?

Đáp: Nhiều năm rồi, tôi uống thứ trà này. Người quen tặng cho tôi.

Hỏi: Trà ngon khó kiếm. Đúng là tôi chưa thấy trà nào ngon như vậy, mặc dù trên đời tôi đã uống nhiều loại trà được cho là danh tiếng.

Đáp: Đúng, “trà ngon khó kiếm, kẻ khôn khó tìm”, ông bà ta vẫn thường dạy như thế. Cho nên có danh có tiếng chưa chắc đã ngon. Vả lại cái ngon của hạng người này, chưa chắc đã là cái ngon của hạng kia. Giống như người nghèo, nhà lá, cơm dù nguội vẫn rất ngon. Còn kẻ giàu sang thì chưa chắc đụng tới. Mà thường, cái gì ngon, cái gì quý, hiếm, sẽ không nhiều người biết. Luận về trà cũng như vậy. Ông có đồng ý không?

Hỏi: Đúng vậy, thứ gì quý, thì hiếm thấy, trà này tôi cũng mới uống lần đầu.

Đáp: Ông quá khen! Mời ông uống thêm một chén nữa. Xưa nay ông đã đi máy bay hay chưa?

Hỏi: Hồi còn trẻ, cách đây mấy chục năm, có đi vài lần, từ ngày tu hành đến giờ, không có dịp đi nữa.

Đáp: Nếu giả sử, đưa cho ông một chiếc máy bay, ông có biết lái nó hay không?

Hỏi: Xe hơi tôi còn không biết lái, làm gì biết lái máy bay.

Đáp: Vấn đề chúng ta đang bàn luận cũng tương tự như vậy. Phương tiện càng tối tân, đòi hỏi người điều khiển phương tiện phải có trình độ tương xứng, đâu phải ai cũng có thể sử dụng được. Hạng “dùi đục chấm mắm cáy ” như ông và tôi đây, làm gì mà có vinh dự cầm lái tàu bay. Họ có cho cũng không biết lái. Lái được chưa chắc đã biết đường, nếu đã không biết đường, dễ chừng đâm vào núi rồi tan xác, đâu có hay ho gì mà ham. Xin hỏi, ông được mấy cháu?

Hỏi: Tôi có ba đứa con, chúng đều đã lớn, học hành đàng hoàng, có nghề nghiệp hết rồi. Bây giờ, tụi nó tự nuôi thân, tôi rảnh rang, không phải vướng bận.

Đáp: Lúc còn nhỏ, con ông đi học bằng phương tiện gì?

Hỏi: Hồi đó, ngày hai bữa tôi đưa chúng đi học. Lớn lên một chút, tôi sắm cho mỗi đứa một chiếc xe đạp để nó tự đi. Lớn lên, đi học xa nhà, nên tôi mua cho mỗi đứa một chiếc xe gắn máy. Bây giờ có đứa đi làm xa, lâu lâu đi máy bay về thăm tôi.

Đáp: Thế thì vì sao, hồi mấy đứa còn nhỏ, ông không sắm cho mỗi đứa một chiếc gắn máy để tự đi cho lẹ, cũng khỏi đón đưa?

Hỏi: Chúng còn nhỏ tuổi, làm sao đi xe gắn máy được? Xe đạp đi còn không xong. Sao ông hỏi việc ngược đời như vậy?

Đáp: (cười lớn) Ở đời, chuyện ngược ngạo như thế, mà lắm người vẫn cứ tưởng mình làm được. Ông có tin như vậy không?

Hỏi: Tôi không tin. Chỉ có những kẻ ”ba trợn”, muốn giết con mình mới mua xe gắn máy cho mấy đứa con nít chạy bộ còn chưa vững.

Đáp: Người cha “ba trợn” đã đành, đứa con nghe vậy, lại tưởng chuyện này bản thân mình cũng làm được. Trên thế gian này, thiếu gì chuyện vừa lạ đời vừa ngược ngạo, tại ông không để ý đó thôi.

Hỏi: Nhưng mà những chuyện này là chuyện đời, đời thì không thiếu người “ba trợn”, nói hoài không hết. Thôi, lỡ uống trà ngon của ông rồi, bây giờ chúng ta bàn chuyện đạo pháp đi.

Đáp: Thì tôi đang nói chuyện đạo pháp chứ đâu có nói ở ngoài. Trên đời này, nhiều người tu hành cứ mông lung như đang nằm mơ. Họ toàn mơ những điều viển vông như con nít học mẫu giáo mơ chuyện tự mình có thể lái chiếc xe gắn máy, hoặc lái máy bay. Tụi nó không tự biết bản thân chỉ cần cái vú giả, ngậm ra đường cho khỏi nhớ mẹ nên đòi hỏi quá đáng. Vì thế, người lớn mới dùng đòn roi để bắt tụi nhỏ đến trường học hỏi để trở nên khôn ngoan hơn.

Ở đời, có phương tiện hiện đại là một chuyện, biết sử dụng phương tiện đó hay không lại là chuyện khác, bằng con đường nào mới đi đến nơi, lại là chuyện khác. Đâu có dễ dàng như bọn trẻ mơ có máy bay là nhảy lên lái được liền. Ông có đồng ý với tôi những điều như vậy không?

Hỏi: Tất nhiên sự đời là như thế, nhưng đạo thì có “đốn” có “tiệm”, có đại căn có tiểu căn. Giống như con nít tập xe đạp, có đứa một bữa là chạy ngon lành, có đứa phải mất vài hôm, đứa chạy được liền như đại căn đốn giáo; đứa vài ba bữa té trầy đầu gối mới chạy được, tạm coi như kẻ tiểu căn. Đâu có nhất thiết giống nhau.

Đáp: Hoàn toàn đồng ý với nhận định của ông. Nhưng biết chạy xe nhanh hay chậm, là do khả năng của đứa nhỏ hay do cái xe?

Hỏi: Tất nhiên là do khả năng của đứa nhỏ.

Đáp: Trước đây ông đã đồng ý cái đạo lý là tùy độ tuổi, mà sắm cho nó phương tiện phù hợp thì cái pháp môn mà ông cho là Tối Thượng Thừa đó có áp dụng cho mọi độ tuổi trong Đạo Pháp được hay không?

Hỏi: Nhưng đời khác, đạo khác, đâu có thể dùng đời đi so sánh với đạo? Người tu hành nào chẳng lớn khôn, đâu phải là con nít còn cắp sách đến trường.

Đáp: Đạo khác đời ở hướng đi, đời khác đạo ở mục đích.

Kinh nghiệm sống học nơi cuộc đời nên khôn lớn theo tuổi, đạo thì có kẻ thân già mà chưa từng thấu đáo đạo lý, trí đạo người ấy đâu khác trẻ con. Vì thế trí đạo không thể lấy tuổi đời mà phân lớn, nhỏ được. Chuyện phương tiện của đạo cũng như vậy, trí lớn phương tiện lớn, trí nhỏ phương tiện nhỏ, đâu có xài chung một thứ được.

Hỏi: Thế thì chuyện Thần Tú và Huệ Năng hay chuyện Phật đưa cành hoa sen trên hội Linh Sơn1 không phải là do pháp môn Tối Thượng Thừa mà hai vị đó được hay sao?

Đáp: Ông lại hiểu sai rồi, Huệ Năng giác ngộ mau hơn Thần Tú là do cơ trí của Huệ Năng tốt hơn, chứ chẳng phải câu kinh (pháp) của Huệ Năng nghe được là Tối Thượng Thừa.

Bằng chứng là, từ trước đến giờ, có khối người nghe đoạn kinh đó, nghe suốt đời mà vẫn ù ù cạc cạc. Ông có nghe đoạn kinh đó chưa, nghe rồi sao chẳng ngộ như Huệ Năng?

Đại  Đức Ca Diếp1, hiểu điều Phật muốn truyền trao trong hội Linh Sơn, không phải Ca Diếp vừa gặp Phật là hiểu liền mà Ca Diếp đã theo Phật tu học bao nhiêu năm, thậm chí phải thân chứng qua các thánh vị của Thanh Văn cho đến khi thành La Hán. Ông còn phải nghe bao nhiêu Kinh Đại Thừa để học Bồ Tát Đạo, bản thân phải phát nguyện hành Hạnh Đầu Đà2 để làm Bồ Tát Hạnh, cuối cùng mới hiểu ra điều Phật muốn căn dặn ở hội Linh Sơn; chứ đâu phải một sớm một chiều mà Đại Đức Ca Diếp có thể thành Bồ Tát ngay được.

Người đời nay cứ nhìn vào thành tựu cuối cùng của người xưa rồi lầm tưởng, mình cũng có thể ngang bằng như thế, mà không chịu tìm hiểu xem quá trình tu tập của họ như thế nào, trải qua gian khó ra sao, bản thân mình đã thực hiện được bao nhiêu phần so với người xưa mà đòi giống họ.

Vì vậy, hạng người không biết người, không biết ta trên đời này nhiều lắm. Nói ra thì “đao to búa lớn” toàn Tối Thượng Thừa mà thành tựu thì thực chất chẳng có gì. Tham “sân”chẳng thối mòn. Có khác chi mấy đứa trẻ con, ngồi lại với nhau kể chuyện hôm qua mình lái máy bay.

Hỏi: Nhưng mà như vậy, cũng phải nói đến là do “căn cơ” tu hành của họ chứ?

Đáp: Một chữ căn cơ, có mấy người tu hành hiểu đúng? Mặc dù người tu hành nào cũng nói rằng mình có căn cơ, thậm chí còn hô hào rằng mình là bậc “đại căn”.

Hỏi: Thì căn cơ mình cao, nói rằng căn cơ mình cao, căn cơ họ thấp nói rằng họ thấp. Căn cơ thì có gì mà không biết?

Đáp: Ông lại hiểu sai nữa rồi. Hai chữ căn cơ, là đánh giá của Bậc Đạo Sư đối với từng môn hạ của mình. Giống như thầy giáo đánh giá năng lực của mỗi học trò. Từ đánh giá này, họ sẽ có cách dạy dỗ phù hợp để giúp người học trò đó mau chóng bắt kịp những điều thầy muốn truyền dạy. Ví dụ như chuyện tập xe đạp của đứa nhỏ, đứa một ngày chạy được,

thì để nó chạy cho quen. Đứa leo lên là té, người lớn phải gắn thêm hai cái

bánh phụ đằng sau, giúp nó khỏi ngã. Do không bị ngã nên đứa bé này tự tin, sau đó nó sẽ tự chạy được. Khi chạy được rồi, người lớn mới tháo cái bánh phụ ở sau xe ra. Chứ không phải để hai cái bánh phụ suốt đời.

Có người muốn học lái máy bay mà dốt ngoại ngữ, thầy của họ sẽ bắt họ học thêm tiếng Anh, rồi sau đó mới dạy kỹ thuật điều khiển cái máy bay như thế nào Những biện pháp tình thế ấy, có thể giúp người vượt qua khó khăn trong giai đoạn nhất thời, Phật Đạo gọi là tùy căn, tùy cơ mà “lập bày phương tiện” như người qua sông cho đò, leo núi cho gậy. Tùy căn tùy cơ của đồ đệ, Bậc Đạo Sư trao cho học trò những phương tiện phù hợp để giúp đồ đệ đạt được thành tựu đạo quả của mình.

Không là bậc Đạo Sư thì biết gì về căn cơ? Giống như chẳng phải thầy giáo, thì làm sao có thể đánh giá năng lực học trò? Vì thế, Phật Đạo có vô lượng phương tiện, chứ chẳng riêng một Tối Thượng Thừa gì gì đó mà ông lầm tưởng.

Hỏi: Như vậy, chẳng lẽ những người tu hành, không biết căn cơ của mình hay sao?

Đáp: Họ vừa biết, nhưng vừa không biết điều đó.

Hỏi: Như thế nào là biết, như thế nào là không biết?

Đáp: Nếu do nghe nói mà biết, do đoán mò mà biết, cái biết này chưa chắc đã đúng. Khi đó, họ không thể đánh giá được mình và người khác thuộc căn cơ nào, vì họ chưa phải Bậc Đạo Sư. Cho dù có đánh giá được căn cơ của người khác đi nữa, họ cũng đâu biết trao “phương tiện” gì cho người kia, trong từng giai đoạn tu tập. Kẻ chưa thành tựu Nhất Thiết Trí, thì sao thông các loại “phương tiện”.

Họ đâu biết rằng, cùng một người nhưng ở địa vị này thì chậm, ở địa vị khác thì nhanh. Giống như có những đứa trẻ, học phổ thông thì dở, lên đại học thì học giỏi, còn một số đứa trẻ khác thì ngược lại. Vì thế, tùy địa vị tu tập, tùy cơ trí từng người, tùy giai đoạn phát triển, tùy vào mỗi đạo quả tương xứng, bậc Đạo Sư sẽ thuyết giảng cho họ phương tiện (các bài pháp) phù hợp, để giúp người này vượt qua khó khăn, mau chóng đạt được thành tựu. Làm như thế, Phật Đạo gọi là biết căn, biết cơ, biết phương tiện.

Hỏi: Nếu nói như vậy, người tu hành không tự biết căn cơ của mình thì không tự tu tập được hay sao?

Đáp: Cũng được, cũng không được.

Hỏi: Vì sao được, vì sao không được?

Đáp: Nếu gọi là được thì chỉ có những người đặc biệt thuộc loại “kỳ lân trong loài người”. Số này rất hiếm, như hoa Ưu Đàm Bát La1 ngàn năm mới nở một lần. Ngoài họ ra, người bình thường không thể làm được. Nó giống như chuyện học tập ở đời, sách vở thì không thiếu, nhưng nếu không được sự dạy dỗ của thầy cô giáo, có mấy ai tự học thành tài.

Vì thế, trong Phật Đạo mới có các Bồ Tát nhập thế để dạy người tu hành tránh những hậu quả không lường do vô minh gây nên. Nó giống như thuốc chữa bệnh cứu người vậy, phải biết mới dùng được. Trong hiệu thuốc chứa hàng trăm loại thuốc chữa bệnh. Nhưng với những kẻ không rành về y học và dược lý, nhưng lại tỏ ra tự cao, lấy thuốc uống bừa, thì chỉ tổ hại mình, hại người mà thôi.

Kinh Phật cũng thế, nó là lương dược của Phật để lại cứu người thoát khỏi bệnh khổ, nhưng người không biết, càng đọc càng đảo điên, càng đọc bệnh ngã chấp2 càng tăng. Một mai ngã chấp tăng thượng đến hết thuốc chữa, thì người đó coi như tự giết chết trí tuệ của mình.

Vì sao tự giết chết trí tuệ của mình?

Vì kẻ đó luôn sống trong ảo tưởng mình là bậc đại căn, chỉ muốn làm thầy, nhưng năng lực chẳng có. Do ảo tưởng đại căn, không thể từ bỏ sĩ diện hão để cầu kẻ có trí dạy dỗ. Hạng người như thế, chẳng khác kẻ mê dùng dây thừng thắt họng trí tuệ. Đến lúc đó, trí tuệ không chết mới là chuyện lạ đời.

Hỏi: Như thế, vì sao phần lớn kinh nào của Phật cũng nói rằng “ai” trì tụng kinh này sẽ phát sinh vô lượng công đức?

Đáp: Câu đó, thông thường để ở đầu kinh hay cuối kinh?

Hỏi: Tất nhiên là để ở cuối kinh, vì đầu kinh giới thiệu nơi chốn thuyết pháp, địa vị tu chứng của đại chúng tham dự; giữa kinh Phật khai triển ý nghĩa bài kinh.

Đáp: Trong lúc giới thiệu thành phần tham dự như vậy, có ai đề cập đến tên của ông hay không?

Hỏi: Tôi làm gì đủ công đức mà đến đó. Nếu thời Phật, tôi có mặt để nghe, thì chắc bây giờ tôi làm Bồ Tát rồi, đâu có ngồi ở đây cam chịu khổ sở.

Đáp: Đại căn ơi là đại căn! Chuyện có chút xíu bằng đầu con kiến mà ông còn không hiểu nổi, thì làm gì những chuyện thâm diệu hơn của đạo pháp ông có thể hiểu được?

Tôi xin đưa một ví dụ, kẻ đại căn nghe ví dụ này nhất định hiểu liền: Trong lớp học, sau khi giảng bài xong, cô giáo nói rằng: “em nào về nhà siêng năng học bài này, sẽ được điểm mười”. Lúc đó, có đứa trẻ lang thang không được học hành đứng bên ngoài, nghe cô giáo nói thế, về nhà vùi đầu vào bài đó để đọc. Tôi hỏi ông, đứa bé lang thang ở ngoài, cho dù đọc đến suốt kiếp mà chưa từng vô lớp thì có được điểm mười hay không?

Ha ha ha! Chữ “ai” ở đây, không phải nhằm chỉ cho mọi người. Cũng như chữ “em nào” của cô giáo không nhằm chỉ cho đứa trẻ lang thang. Vì thế, hồi nãy tôi có hỏi ông, khi xướng tên “thành phần tham dự”, có tên của ông không, là vì lẽ như vậy.

Hỏi: Như thế, ngày sau không có ai tự đọc kinh rồi hiểu mà phát sinh công đức hay sao?

Đáp: Hình như chuyện này, tôi đã nói hồi nãy trong câu cũng được, cũng không được rồi mà. Rất tiếc, tôi có chút việc, đành tạm chia tay. Mời uống thêm chén trà nguội. Mai mốt nếu thấy còn hứng thú, xin mời ông đến đây, chúng ta sẽ tiếp tục uống trà đàm đạo.

Hỏi: Trước khi về, tôi có chút tâm sự, ông có thể nán vài giây được chăng?

Đáp: Vài giây thì rất sẵn sàng.

Hỏi: Trao đổi với ông, tuy tôi có chút bực tức, nhưng phải nói rằng, những điều được nghe là rất chí lí. Mỗi mỗi đối với ông đều phân minh.

Xin hỏi, ông biết đến đâu trong Phật Đạo?

Đáp: Đến đâu thì tôi không biết, nhưng trong Phật Đạo, trao đổi với ông, tôi biết được hai điều.

Hỏi: Xin hỏi, đó là hai điều gì?

Đáp: Không biết tôi nói ra, ông có đủ sức nghe hay không?

Hỏi: Dù lời trái tai, tôi cũng đủ sức.

Đáp: Thế thì tôi xin nói: Ông vừa là đại căn, vừa là tiểu căn.

Đại căn là, nghe lời trái với mình, không đem tâm sân hận. Đại căn là, điều gì có lý có tình, ông không phủ nhận. Đại căn là, ông có thể đón nhận sự thật, cho dù sự thật đó không thuận với mình.

Tiểu căn là, tự thân không biết mình đứng ở đâu trong Đạo Pháp vẫn cứ tự xưng là kẻ đại căn”.

Chuyện hôm nay đã mãn. Xin tạm biệt!

Vô Đối Môn

Tác giả: Lý Tứ

Nhà xuất bản Dân Trí

Phần 5: Nhận thức "Thường, lạc, ngã, tịnh'' của sơ ngộ. Pháp môn tối thượng thừa Trang từ 63-76

Giọng đọc: Nhã Quỳnh - phát thanh viên Đài tiếng nói nhân dân TP Hồ Chí Minh

Bài viết cùng danh mục

Thông báo

Hoặc gọi 096.4343.168